Thứ Tư, 30 tháng 9, 2015
MỘT VIỆC NHỎ THÔI
Một gia đình gồm hai vợ chồng và bốn đứa con nhỏ. Dịp hè, họ cùng đi
nghỉ mát ở một bãi biển. Bọn trẻ rất thích tắm biển và xây những tòa lâu đài
trên cát. Bố mẹ chúng thuê một cái lều ngồi uống nước trên bờ, dõi nhìn các con
vui đùa không quá xa ngoài kia phía trước mặt.
Thế rồi họ trông thấy một bà cụ già nhỏ nhắn ăn mặc xuềnh xoàng, trên tay cầm một chiếc túi cũ đang tiến lại. Tóc bà đã bạc trắng, bị gió biển thổi tốc lên càng làm cho khuôn mặt nhăn nheo của bà thêm khó coi. Bà cụ đang lẩm bẩm một điều gì đó, dáo dác nhìn rồi thỉnh thoảng lại cúi xuống nhặt những thứ gì đó trên bãi biển, bỏ vào cái túi.
Hai vợ chồng không hẹn mà cùng vội chạy ra gọi các con lại, căn dặn chúng phải tránh xa người đàn bà khả nghi kia. Dường như họ cố ý nói to cho bà ta nghe thấy để bà ta nên đi chỗ khác kiếm ăn.
Cụ già không biết có nghe thấy gì không giữa tiếng sóng biển ì ầm, chỉ thấy bà cứ từ từ tiến về phía họ. Thế rồi bà cụ dừng lại nhìn mấy đứa trẻ dễ thương đang ngơ ngác nhìn mình. Bà mỉm cười với họ nhưng không ai đáp lại, chỉ giả vờ ngó lơ đi chỗ khác. Bà cụ lại lẳng lặng làm tiếp công việc khó hiểu của mình. Còn cả gia đình kia thì chẳng hứng thú tắm biển nữa, họ kéo nhau lên quán nước phía trên bãi biển.
Trong lúc chuyện trò với người phục vụ bàn ăn cùng những khách hàng trong quán, hai vợ chồng quyết định hỏi thăm xem bà cụ khả nghi kia là ai và họ... sững sờ: Bà cụ ấy là người dân ở đây, từng có một đứa cháu ngoại vì bán hàng rong trên bãi biển, vô tình đạp phải một mảnh chai rồi bị nhiễm trùng, sốt cao, đưa đi bệnh viện cấp cứu không kịp và đã chết không lâu vì bệnh uốn ván. Từ dạo ấy, thương cháu đến ngẩn ngơ, bà cứ lặng lẽ đi dọc bãi biển, tìm nhặt những mảnh chai, mảnh sắt hoặc hòn đá có cạnh sắc. Mọi người hỏi lý do thì bà đáp mà đôi mắt ướt nhòe: "ồ, tôi chỉ làm một việc nhỏ thôi ấy mà, để các cháu bé có thể vui chơi trên bãi biển mà không bao giờ bị chết như đứa cháu đáng thương của tôi!".
Nghe xong câu chuyện, người chồng vội chạy ngay xuống bãi biển mong có thể nói một lời xin lỗi và một lời biết ơn chân thành, nhưng bà cụ đã đi rất xa rồi. Bóng bà chỉ còn là một chấm nhỏ trên bãi biển vắng người khi chiều đang xuống...
Thế rồi họ trông thấy một bà cụ già nhỏ nhắn ăn mặc xuềnh xoàng, trên tay cầm một chiếc túi cũ đang tiến lại. Tóc bà đã bạc trắng, bị gió biển thổi tốc lên càng làm cho khuôn mặt nhăn nheo của bà thêm khó coi. Bà cụ đang lẩm bẩm một điều gì đó, dáo dác nhìn rồi thỉnh thoảng lại cúi xuống nhặt những thứ gì đó trên bãi biển, bỏ vào cái túi.
Hai vợ chồng không hẹn mà cùng vội chạy ra gọi các con lại, căn dặn chúng phải tránh xa người đàn bà khả nghi kia. Dường như họ cố ý nói to cho bà ta nghe thấy để bà ta nên đi chỗ khác kiếm ăn.
Cụ già không biết có nghe thấy gì không giữa tiếng sóng biển ì ầm, chỉ thấy bà cứ từ từ tiến về phía họ. Thế rồi bà cụ dừng lại nhìn mấy đứa trẻ dễ thương đang ngơ ngác nhìn mình. Bà mỉm cười với họ nhưng không ai đáp lại, chỉ giả vờ ngó lơ đi chỗ khác. Bà cụ lại lẳng lặng làm tiếp công việc khó hiểu của mình. Còn cả gia đình kia thì chẳng hứng thú tắm biển nữa, họ kéo nhau lên quán nước phía trên bãi biển.
Trong lúc chuyện trò với người phục vụ bàn ăn cùng những khách hàng trong quán, hai vợ chồng quyết định hỏi thăm xem bà cụ khả nghi kia là ai và họ... sững sờ: Bà cụ ấy là người dân ở đây, từng có một đứa cháu ngoại vì bán hàng rong trên bãi biển, vô tình đạp phải một mảnh chai rồi bị nhiễm trùng, sốt cao, đưa đi bệnh viện cấp cứu không kịp và đã chết không lâu vì bệnh uốn ván. Từ dạo ấy, thương cháu đến ngẩn ngơ, bà cứ lặng lẽ đi dọc bãi biển, tìm nhặt những mảnh chai, mảnh sắt hoặc hòn đá có cạnh sắc. Mọi người hỏi lý do thì bà đáp mà đôi mắt ướt nhòe: "ồ, tôi chỉ làm một việc nhỏ thôi ấy mà, để các cháu bé có thể vui chơi trên bãi biển mà không bao giờ bị chết như đứa cháu đáng thương của tôi!".
Nghe xong câu chuyện, người chồng vội chạy ngay xuống bãi biển mong có thể nói một lời xin lỗi và một lời biết ơn chân thành, nhưng bà cụ đã đi rất xa rồi. Bóng bà chỉ còn là một chấm nhỏ trên bãi biển vắng người khi chiều đang xuống...
Thứ Sáu, 25 tháng 9, 2015
Gai hoa hồng
Ông đúng là ông già khó chịu! – Becky nói với ông già khi cô đi ra khỏi
phòng bệnh của ông ta ở bệnh viện nhân đạo, nơi mà cô đã làm việc hơn một năm
nay. Bệnh nhân mới này ở đây được khoảng hai tuần và ông ta làm cho cuộc sống
của tất cả các y tá trở thành địa ngục. Ông ta chửa rủa, quát, đá tất cả những
ai lại gần ông ta. Đó là còn chưa kể việc ông ta cố tình đổ thức ăn ra giường
để y tá phải đến dọn, và để ông ta có thể nguyền rủa thêm. Becky không nghĩ là
ông ta có người thân vì chẳng có ai đến thăm ông, ít nhất là trong khoảng thời
gian cô phải chăm sóc ông ta.
Một hôm, một tổ chức phụ nữ đến thăm bệnh viện. Họ hát và đem hoa hồng đến, tặng mỗi bệnh nhân một bông hoa đỏ thắm. Ông già khó tính nhìn bông hoa được cắm tử tế trong lọ thủy tinh trên bàn, lấy mu bàn tay gạt cái lọ. Cái lọ rơi xuống, vỡ tan tành. Mọi người chỉ đứng nhìn ông ta vẻ kỳ lạ. Ông trở mình quay mặt vào tường xoay lưng lại những người từ tổ chức phụ nữ đến thăm.
Một người bắt đầu dọn những mảnh vụn của cái lọ. Becky nhặt bông hoa lên, cắm nó vào một cái cốc nhựa và đặt lên tủ đầu giường của bệnh nhân già kia. Khi người của tổ chức phụ nữ đã đi về, Becky quay lại phòng ông bệnh nhân khó chịu, cầm bông hoa hồng và ngắt từng cánh một, ném vào thùng rác bên cạnh. Ông già nhìn thẳng cô y tá, cho đến khi cô ngắt đến cánh cuối cùng. Còn lại cuống hoa, cô cắm trả lại cốc nhựa. Vừa khi cô định quay đi thì ông bệnh nhân già làu bàu:
- Sao cô lại làm thế?
- Tôi chỉ muốn ông thấy những gì ông đã làm? – Becky đáp – Ông đã phá vỡ những mối quan tâm của chúng tôi với ông như là ngắt bỏ từng cánh hoa một, kể
từ khi ông đến đây.
Rồi Becky đi ra.
Sáng hôm sau, khi đến bệnh viện thì các bác sĩ bảo Becky đến dọn phòng ông bệnh nhân già. Ông đã mất vào đêm hôm trước. Khi Becky thu khăn trải giường đi giặt, cô nhìn thấy bông hoa hồng vẫn còn nguyên vẹn trong cái cốc nhựa. Những cánh hoa đã được đính vào cuống hoa bằng băng dính một cách vụng về. Becky cũng thấy ở dưới gối của ông lão có một quyển Kinh thánh. Khi cô nhấc quyển sách lên, trong đó rơi ra một tờ giấy, có ghi: "Không phải tôi muốn mọi người ghét tôi. Tôi chỉ không muốn tất cả mọi người sẽ quên tôi. Tôi đã là một đứa trẻ mồ côi và tôi chẳng bao giờ có một người thân."
Là một đứa trẻ mồ côi từ nhỏ, Becky hiểu rằng người bệnh nhân già đó không phải là một ông lão khó chịu. Chỉ vì không có ai trên thế giới này quan tâm đến ông ấy. Vì ông thấy mọi người đều quên ông ấy, ngay cả khi ông ấy vẫn còn sống. Và tất cả những gì ông lão muốn chỉ là có ai đó nhớ tới ông...
Một hôm, một tổ chức phụ nữ đến thăm bệnh viện. Họ hát và đem hoa hồng đến, tặng mỗi bệnh nhân một bông hoa đỏ thắm. Ông già khó tính nhìn bông hoa được cắm tử tế trong lọ thủy tinh trên bàn, lấy mu bàn tay gạt cái lọ. Cái lọ rơi xuống, vỡ tan tành. Mọi người chỉ đứng nhìn ông ta vẻ kỳ lạ. Ông trở mình quay mặt vào tường xoay lưng lại những người từ tổ chức phụ nữ đến thăm.
Một người bắt đầu dọn những mảnh vụn của cái lọ. Becky nhặt bông hoa lên, cắm nó vào một cái cốc nhựa và đặt lên tủ đầu giường của bệnh nhân già kia. Khi người của tổ chức phụ nữ đã đi về, Becky quay lại phòng ông bệnh nhân khó chịu, cầm bông hoa hồng và ngắt từng cánh một, ném vào thùng rác bên cạnh. Ông già nhìn thẳng cô y tá, cho đến khi cô ngắt đến cánh cuối cùng. Còn lại cuống hoa, cô cắm trả lại cốc nhựa. Vừa khi cô định quay đi thì ông bệnh nhân già làu bàu:
- Sao cô lại làm thế?
- Tôi chỉ muốn ông thấy những gì ông đã làm? – Becky đáp – Ông đã phá vỡ những mối quan tâm của chúng tôi với ông như là ngắt bỏ từng cánh hoa một, kể
từ khi ông đến đây.
Rồi Becky đi ra.
Sáng hôm sau, khi đến bệnh viện thì các bác sĩ bảo Becky đến dọn phòng ông bệnh nhân già. Ông đã mất vào đêm hôm trước. Khi Becky thu khăn trải giường đi giặt, cô nhìn thấy bông hoa hồng vẫn còn nguyên vẹn trong cái cốc nhựa. Những cánh hoa đã được đính vào cuống hoa bằng băng dính một cách vụng về. Becky cũng thấy ở dưới gối của ông lão có một quyển Kinh thánh. Khi cô nhấc quyển sách lên, trong đó rơi ra một tờ giấy, có ghi: "Không phải tôi muốn mọi người ghét tôi. Tôi chỉ không muốn tất cả mọi người sẽ quên tôi. Tôi đã là một đứa trẻ mồ côi và tôi chẳng bao giờ có một người thân."
Là một đứa trẻ mồ côi từ nhỏ, Becky hiểu rằng người bệnh nhân già đó không phải là một ông lão khó chịu. Chỉ vì không có ai trên thế giới này quan tâm đến ông ấy. Vì ông thấy mọi người đều quên ông ấy, ngay cả khi ông ấy vẫn còn sống. Và tất cả những gì ông lão muốn chỉ là có ai đó nhớ tới ông...
Thứ Năm, 24 tháng 9, 2015
Bí mật của cuộc sống
Một cậu bé tám tuổi lại gần một người đàn ông đứng tuổi và ngước mắt,
hỏi :
- Cháu biết chú là người rất thông thái. Cháu muốn biết bí mật của cuộc sống là gì ? Chú nói cho cháu biết đi ?
Người đàn ông cúi xuống bên đứa trẻ và đáp :
- Chú đã nghĩ rất lâu trong suốt cuộc đời mình. Và bí mật của cuộc sống được tổng kết trong bốn từ :
"Từ thứ nhất là "suy nghĩ". Hãy suy nghĩ về những giá trị mà cháu muốn cuộc sống của cháu có.
"Từ thứ hai là "tin tưởng". Hãy tin tưởng vào bản thân mình dựa trên những việc cháu làm vì giá trị cháu muốn có.
"Từ thứ ba là "mơ ước". Hãy mơ ước về những điều có thể đến, dựa trên niềm tin vào bản thân và những giá trị mình muốn có.
"Từ cuối cùng là "can đảm". Hãy can đảm để biến ước mơ thành hiện thực, dựa trên những niềm tin vào bản thân và những giá trị của chính mình".
Và đó là những điều mà Walt Disney đã nói với cậu bé : "SUY NGHĨ, TIN TƯỞNG, MƠ ƯỚC và CAN ĐẢM".
- Cháu biết chú là người rất thông thái. Cháu muốn biết bí mật của cuộc sống là gì ? Chú nói cho cháu biết đi ?
Người đàn ông cúi xuống bên đứa trẻ và đáp :
- Chú đã nghĩ rất lâu trong suốt cuộc đời mình. Và bí mật của cuộc sống được tổng kết trong bốn từ :
"Từ thứ nhất là "suy nghĩ". Hãy suy nghĩ về những giá trị mà cháu muốn cuộc sống của cháu có.
"Từ thứ hai là "tin tưởng". Hãy tin tưởng vào bản thân mình dựa trên những việc cháu làm vì giá trị cháu muốn có.
"Từ thứ ba là "mơ ước". Hãy mơ ước về những điều có thể đến, dựa trên niềm tin vào bản thân và những giá trị mình muốn có.
"Từ cuối cùng là "can đảm". Hãy can đảm để biến ước mơ thành hiện thực, dựa trên những niềm tin vào bản thân và những giá trị của chính mình".
Và đó là những điều mà Walt Disney đã nói với cậu bé : "SUY NGHĨ, TIN TƯỞNG, MƠ ƯỚC và CAN ĐẢM".
Thứ Ba, 22 tháng 9, 2015
Giá trị
Một nhà hùng biện nổi tiếng đã mở đầu buổi diển
thuyết của mình bằng cách giơ tờ 20 đôla lên và hỏi hơn hai mươi người tham dự
rằng “Ai muốn có tờ 20 đôla này?” và dĩ nhiên là có rất nhiều người giơ tay
lên.
Ông nói: “Tôi sẽ đưa tờ 20 đôla này cho một người trong số các bạn nhưng đầu tiên tôi làm điều này đã”. Ông bắt đầu vò nát tờ 20 đôla đó và hỏi tiếp: “Còn ai muốn lấy tờ 20 đôla này nữa không?”. Vẫn có nhiều người giơ tay.
“Ðược, vậy nếu tôi làm như thế này thì sao?” Ông ném tờ 20 đôla xuống sàn, dùng giầy dẫm mạnh lên. Sau đó, ông nhặt nó lên. Bây giờ tờ 20 đôla đã nhàu nát và bẩn thỉu. “Nào giờ thì ai muốn có nó nữa?”, ông hỏi và vẫn có nhiều cánh tay đưa lên tuy ít đi so với ban đầu.
“Các bạn thân mến, các bạn vừa được học một bài học về giá trị. Dù tôi có làm gì với đồng tiền này thì các bạn vẫn cần nó vì giá trị của nó vẫn không hề giảm sút. Nó vẫn có giá là 20 đôla”.
"Khoẻ mạnh hay ốm yếu, thành công hay thất bại, đối với bạn bè, người thân, những người yêu mến bạn, bạn vẫn thật cần thiết. Giá trị của bạn là ở chính con người bạn. Bạn thật đặc biệt. Hãy luôn nhắc mình nhớ điều đó. Ðừng ngồi đếm những nỗi buồn mà hãy đếm xem bạn đã có bao nhiêu lần hạnh phúc.
“Chúng ta có thể bị đánh gục, bị vò xé, bị giày xéo trong bùn đen bởi những quyết định sai lầm, những tình huống “đen đủi” bất chợt hiện ra cản con đường khiến mình cảm thấy mình dường như chẳng có giá trị. Nhưng dù điều gì đã xảy ra hoặc sẽ xảy ra... bạn hãy luôn nhớ rằng bản thân bạn thật đáng quý và giá trị ấy sẽ không bao giờ mất đi, "Và hãy giữ cho những giá trị đừng bao giờ mất đi bạn nhé”.
Đọc thêm
Ông nói: “Tôi sẽ đưa tờ 20 đôla này cho một người trong số các bạn nhưng đầu tiên tôi làm điều này đã”. Ông bắt đầu vò nát tờ 20 đôla đó và hỏi tiếp: “Còn ai muốn lấy tờ 20 đôla này nữa không?”. Vẫn có nhiều người giơ tay.
“Ðược, vậy nếu tôi làm như thế này thì sao?” Ông ném tờ 20 đôla xuống sàn, dùng giầy dẫm mạnh lên. Sau đó, ông nhặt nó lên. Bây giờ tờ 20 đôla đã nhàu nát và bẩn thỉu. “Nào giờ thì ai muốn có nó nữa?”, ông hỏi và vẫn có nhiều cánh tay đưa lên tuy ít đi so với ban đầu.
“Các bạn thân mến, các bạn vừa được học một bài học về giá trị. Dù tôi có làm gì với đồng tiền này thì các bạn vẫn cần nó vì giá trị của nó vẫn không hề giảm sút. Nó vẫn có giá là 20 đôla”.
"Khoẻ mạnh hay ốm yếu, thành công hay thất bại, đối với bạn bè, người thân, những người yêu mến bạn, bạn vẫn thật cần thiết. Giá trị của bạn là ở chính con người bạn. Bạn thật đặc biệt. Hãy luôn nhắc mình nhớ điều đó. Ðừng ngồi đếm những nỗi buồn mà hãy đếm xem bạn đã có bao nhiêu lần hạnh phúc.
“Chúng ta có thể bị đánh gục, bị vò xé, bị giày xéo trong bùn đen bởi những quyết định sai lầm, những tình huống “đen đủi” bất chợt hiện ra cản con đường khiến mình cảm thấy mình dường như chẳng có giá trị. Nhưng dù điều gì đã xảy ra hoặc sẽ xảy ra... bạn hãy luôn nhớ rằng bản thân bạn thật đáng quý và giá trị ấy sẽ không bao giờ mất đi, "Và hãy giữ cho những giá trị đừng bao giờ mất đi bạn nhé”.
Thứ Sáu, 18 tháng 9, 2015
Tình yêu và đôi cánh
Ngày xưa có một cô gái sống cô đơn trong một ngôi nhà cạnh
một cánh
rừng. Hôm nọ, trong lúc dạo chơi cô bỗng thấy hai chú chim non mất mẹ
đang thoi thóp trong tổ trên một chạc cây. Lập tức cô đem chúng về nuôi
trong một cài lồng rất đẹp. Với sự chăm sóc chan chứa tình thương của cô,
hai chú chim non ngày càng khoẻ mạnh và xinh đẹp. Mỗi sáng chúng cất
tiếng líu lo để chào đón cô.
Một ngày kia cô quên cài cửa lồng chim. Thế là một chú chim liền bay ra
khỏi lồng, nhưng nó không bay đi ngay mà lại lượn vài vòng quanh cô như
muốn chào cô lần cuối. Cô gái buồn bã nhìn theo. Cô không muốn phải rời
xa nó.Cô không muốn tình yêu của cô bay mất, nên khi con chim bay thật
gần cô liền với tay tóm lấy nó thật mạnh. Cô sung sướng và giữ chặt nó
trong tay. Nhưng một lúc sau, cô cảm thấy con vật yêu quý bỗng trở nên
mềm nhũn trong tay cô, Cô hoảng hốt xoè tay ra và bàng hoàng nhận thấy
con chim đã khép mắt qua đời. Nó đã chết bởi chính tình yêu mà cô dành
cho nó. Cô thẫn thờ nhìn con chim lẻ bạn còn lại trong lồng và bắt đầu
mường tượng rằng nó cần có tự do bay vút lên bầu trời xanh thẳm.Cô liền
tiến tới chiếc lồng và nhẹ nhàng tung chú chim vào không trung. Nó lượn
quanh cô một vòng, hai vòng, rồi ba vòng. Cô đón nhận niềm vui của nó bằng
ánh nhìn rạng rỡ và trìu mến.Những muộn phiền trước đó không còn
nữa.Bỗng nhiên chú chim dịu dàng đáp đậu trên vai cô và hót vang những
giai điệu mượt mà mà chưa bao giờ trong cuộc đời cô được thưởng thức.
Qua tiếng hót diệu kỳ kia , cô chợt hiểu rằng cách nhanh nhất để đánh mất
tình yêu là khi ta nắm giữ nó thật chặt. Trái lại, để giữ mãi sự yêu thương
thì ta phải ân cần trao cho tình yêu một đôi cánh tự do.
rừng. Hôm nọ, trong lúc dạo chơi cô bỗng thấy hai chú chim non mất mẹ
đang thoi thóp trong tổ trên một chạc cây. Lập tức cô đem chúng về nuôi
trong một cài lồng rất đẹp. Với sự chăm sóc chan chứa tình thương của cô,
hai chú chim non ngày càng khoẻ mạnh và xinh đẹp. Mỗi sáng chúng cất
tiếng líu lo để chào đón cô.
Một ngày kia cô quên cài cửa lồng chim. Thế là một chú chim liền bay ra
khỏi lồng, nhưng nó không bay đi ngay mà lại lượn vài vòng quanh cô như
muốn chào cô lần cuối. Cô gái buồn bã nhìn theo. Cô không muốn phải rời
xa nó.Cô không muốn tình yêu của cô bay mất, nên khi con chim bay thật
gần cô liền với tay tóm lấy nó thật mạnh. Cô sung sướng và giữ chặt nó
trong tay. Nhưng một lúc sau, cô cảm thấy con vật yêu quý bỗng trở nên
mềm nhũn trong tay cô, Cô hoảng hốt xoè tay ra và bàng hoàng nhận thấy
con chim đã khép mắt qua đời. Nó đã chết bởi chính tình yêu mà cô dành
cho nó. Cô thẫn thờ nhìn con chim lẻ bạn còn lại trong lồng và bắt đầu
mường tượng rằng nó cần có tự do bay vút lên bầu trời xanh thẳm.Cô liền
tiến tới chiếc lồng và nhẹ nhàng tung chú chim vào không trung. Nó lượn
quanh cô một vòng, hai vòng, rồi ba vòng. Cô đón nhận niềm vui của nó bằng
ánh nhìn rạng rỡ và trìu mến.Những muộn phiền trước đó không còn
nữa.Bỗng nhiên chú chim dịu dàng đáp đậu trên vai cô và hót vang những
giai điệu mượt mà mà chưa bao giờ trong cuộc đời cô được thưởng thức.
Qua tiếng hót diệu kỳ kia , cô chợt hiểu rằng cách nhanh nhất để đánh mất
tình yêu là khi ta nắm giữ nó thật chặt. Trái lại, để giữ mãi sự yêu thương
thì ta phải ân cần trao cho tình yêu một đôi cánh tự do.
Thứ Năm, 17 tháng 9, 2015
Ông cụ đã xếp hàng đủ rồi
Một lần mẹ nhờ tôi ra quỹ tiết kiệm để rút tiền.Quỹ rất
đông.Tôi nhận
phiếu và xếp vào hàng người dài dằng dặc, và cùng lúc đó tôi thấy một
ông cụ mới vào.Ông cụ ko biết là phải lấy phiếu thứ tự nên bước thẳng đến
chỗ nhân viên ngân hàng, đặt cái túi sách to đùng xuống và hỏi rút
tiền.Cô nhân viên gắt gỏng bảo ông cụ xếp xuống cuối hàng và dẹp cái túi to
cồng kềnh sang một bên.
Ông cụ hỏi cô nhân viên là liệu ông có thể đẻ nhờ cái túi ở ngân hàng,
nhận phiếu, rồi đi mua hàng và sẽ quay lại sau nửa tiếng ko?Cô nhân
viên đáp gọn lỏn:
- Không, ông đi xuống cuối hàng chờ đi!
Ông cụ rất lich sự, nhã nhặn còn cô nhân viên thi ko.
Tôi chạy đến gần ông cụ và bảo ông có thể rút tiền trước tôi.Quá khó
chịu trước sự vô lễ của cô nhân viên trẻ, tôi quay lại hỏi từng người
đang xếp hàng là liệu họ có ngại ko nếu để cho ông cụ rút tiền trước.Mọi
người lần lượt gật đầu.
Nhưng giọng nói mạnh mẽ hỏi mọi người của tôi bỗng trở nên yếu ớt khi
tôi đối diện với một người ở gần cuối hàng.Anh ta rất cao lớn, đeo một
sợi xích vàng ở cổ, trông có vẻ rất"đầu gấu".Thậm chí tôi còn thấy cổ
anh ta có hình xăm nữa...
- Anh ko ngại nếu để cho ông cụ này rút tiền trước chúng ta chứ?-Tôi
hỏi lộ rõ vẻ dè dặt.Chắc trông tôi lúc ấy buồn cười lắm,giọng nói đang
hăng máu thế mà bỗng yếu xìu hẳn đi.
- Ko đâu ko đâu- anh ta nói bằng giọng vang và to-Cứ tự nhiên, cứ tự
nhiên!
Tôi thở ra đánh "phù" một cái.Giọng anh ta thành thật đến mức tôi cảm
thấy mình chợt hoá thành một con bé ngốc nghếch vì đã để bề ngoài của
anh ta làm cho phát hoảng.
Chỉ trong một phút ông cụ đã rút xong tiền của mình và ra về.Chờ một
lúc nữa, đến lượt tôi rút tiền.Khi kiểm tra tài khoản cua tôi cô nhân
viên lẩm bẩm:
-Thật ko hiểu nổi mấy ông bà già bây giờ.Lúc nào họ cũng nghĩ la họ có
thể xông ngay đến quầy rút tiền và phải được phục vụ trước tất cả mọi
người.
Tôi phồng mắt lên và nhìn thẳng vào cô ta:
- Thế cô có nhận ra ông cụ ấy đã 80 tuổi và đi lại rất khó khăn?Ông ấy
đã xếp hàng quá đủ cả cuộc đời mình rồi.Và với những con người biết
kính trọng tuổi tác của ông ấy, thì ông ấy ko bao giờ phải xếp hàng nữa!
- Đúng thế!-Một giọng nói to vang lên ngay sau lưng tôi,làm tôi giật
bắn cả mình- Hoàn toàn đúng!
Tôi quay lại và nhìn thấy người cao lớn lúc nãy.Anh ta nói tiếp:
-Việc lúc nãy là công bằng.Ông cụ đã xếp hàng đủ rồi.Ông ấy đã phải xếp
hàng đủ rồi!
Tôi cười to và giơ tay ra:
-Tôi rất thích thái độ của anh!
Người cao lớn kia bắt tay tôi:
-Tôi cũng thích thái độ của cô, cô bạn trẻ!
Cô nhân viên xám mặt lại.
Tôi thì nhỏ bé còn anh ta thì quá to lớn.Chúng tôi khác nhau ở nhiều
điểm,ít nhất là ngoại hình.Người ngoài hẳn nhìn thấy chúng tôi là một cặp
đôi khập khiễng.Nhưng khi chúng tôi cùng chung một kiểu đập riêng, điều
khó xảy ra nhất cũng có thể xảy ra.
Và tôi rất mong sẽ gặp lại anh ta một lần nữa.
phiếu và xếp vào hàng người dài dằng dặc, và cùng lúc đó tôi thấy một
ông cụ mới vào.Ông cụ ko biết là phải lấy phiếu thứ tự nên bước thẳng đến
chỗ nhân viên ngân hàng, đặt cái túi sách to đùng xuống và hỏi rút
tiền.Cô nhân viên gắt gỏng bảo ông cụ xếp xuống cuối hàng và dẹp cái túi to
cồng kềnh sang một bên.
Ông cụ hỏi cô nhân viên là liệu ông có thể đẻ nhờ cái túi ở ngân hàng,
nhận phiếu, rồi đi mua hàng và sẽ quay lại sau nửa tiếng ko?Cô nhân
viên đáp gọn lỏn:
- Không, ông đi xuống cuối hàng chờ đi!
Ông cụ rất lich sự, nhã nhặn còn cô nhân viên thi ko.
Tôi chạy đến gần ông cụ và bảo ông có thể rút tiền trước tôi.Quá khó
chịu trước sự vô lễ của cô nhân viên trẻ, tôi quay lại hỏi từng người
đang xếp hàng là liệu họ có ngại ko nếu để cho ông cụ rút tiền trước.Mọi
người lần lượt gật đầu.
Nhưng giọng nói mạnh mẽ hỏi mọi người của tôi bỗng trở nên yếu ớt khi
tôi đối diện với một người ở gần cuối hàng.Anh ta rất cao lớn, đeo một
sợi xích vàng ở cổ, trông có vẻ rất"đầu gấu".Thậm chí tôi còn thấy cổ
anh ta có hình xăm nữa...
- Anh ko ngại nếu để cho ông cụ này rút tiền trước chúng ta chứ?-Tôi
hỏi lộ rõ vẻ dè dặt.Chắc trông tôi lúc ấy buồn cười lắm,giọng nói đang
hăng máu thế mà bỗng yếu xìu hẳn đi.
- Ko đâu ko đâu- anh ta nói bằng giọng vang và to-Cứ tự nhiên, cứ tự
nhiên!
Tôi thở ra đánh "phù" một cái.Giọng anh ta thành thật đến mức tôi cảm
thấy mình chợt hoá thành một con bé ngốc nghếch vì đã để bề ngoài của
anh ta làm cho phát hoảng.
Chỉ trong một phút ông cụ đã rút xong tiền của mình và ra về.Chờ một
lúc nữa, đến lượt tôi rút tiền.Khi kiểm tra tài khoản cua tôi cô nhân
viên lẩm bẩm:
-Thật ko hiểu nổi mấy ông bà già bây giờ.Lúc nào họ cũng nghĩ la họ có
thể xông ngay đến quầy rút tiền và phải được phục vụ trước tất cả mọi
người.
Tôi phồng mắt lên và nhìn thẳng vào cô ta:
- Thế cô có nhận ra ông cụ ấy đã 80 tuổi và đi lại rất khó khăn?Ông ấy
đã xếp hàng quá đủ cả cuộc đời mình rồi.Và với những con người biết
kính trọng tuổi tác của ông ấy, thì ông ấy ko bao giờ phải xếp hàng nữa!
- Đúng thế!-Một giọng nói to vang lên ngay sau lưng tôi,làm tôi giật
bắn cả mình- Hoàn toàn đúng!
Tôi quay lại và nhìn thấy người cao lớn lúc nãy.Anh ta nói tiếp:
-Việc lúc nãy là công bằng.Ông cụ đã xếp hàng đủ rồi.Ông ấy đã phải xếp
hàng đủ rồi!
Tôi cười to và giơ tay ra:
-Tôi rất thích thái độ của anh!
Người cao lớn kia bắt tay tôi:
-Tôi cũng thích thái độ của cô, cô bạn trẻ!
Cô nhân viên xám mặt lại.
Tôi thì nhỏ bé còn anh ta thì quá to lớn.Chúng tôi khác nhau ở nhiều
điểm,ít nhất là ngoại hình.Người ngoài hẳn nhìn thấy chúng tôi là một cặp
đôi khập khiễng.Nhưng khi chúng tôi cùng chung một kiểu đập riêng, điều
khó xảy ra nhất cũng có thể xảy ra.
Và tôi rất mong sẽ gặp lại anh ta một lần nữa.
Thứ Hai, 14 tháng 9, 2015
Cái gương vùng Matsu-Yama
(Truyện cổ Nhật Bản)
Tại vùng núi Matsu-Yama hẻo lánh, tỉnh Echigo, có đôi vợ chồng trẻ sống với
nhau. Họ sinh được một đứa con gái. Hai người rất mực thương con.
Một dạo, người bố lên kinh đô có việc. Khi trở về, anh tặng vợ một cái hộp
bằng gỗ trắng rất nhẵn. Mở hộp ra, chị thấy có một mảnh kim khí tròn; một
mặt thì trắng như bạc khảm, điểm những nét vẽ hình chim và lá; còn mặt kia
thì sáng như thủy tinh. Chị vợ xem, lấy làm thích thú và lạ lùng vì thấy trong
đáy gương có một khuôn mặt xinh đẹp với đôi môi hồng và đôi mắt sáng
như đang mỉm cười với mình.
Anh chồng giải thích cho chị hiểu đó là cái gương. Khuôn mặt người phụ nữ
trong ấy chính là khuôn mặt chị được phản ánh vào. Ở thành thị, mọi người
đều có một cái như thế này, còn ở đây chưa ai trông thấy.
Chị vợ say mê với món quà. Lần đầu tiên được thấy cái gương và cũng là
lần đầu tiên chị thấy khuôn mặt xinh đẹp của mình. Chị đem ra dùng xong lại
cất ngay nó vào hộp cẩn thận cùng với những thứ quý giá khác.
Mấy năm trôi qua. con gái ngày càng lớn, giống mẹ như đúc. Cô bé rất dễ
yêu, ngoan ngoãn, được mọi người thương mến. Nhớ lại mình đã có lúc
kiêu hãnh vì tự biết có sắc đẹp, người mẹ bèn cất chiếc gương rất kỹ, sợ
rằng con gái soi gương rồi sẽ có ý nghĩ tự kiêu.
Một hôm, người mẹ hiền dịu ấy lâm bệnh nặng. Biết không còn sống được
bao lâu nữa, bà gọi con gái đến gần và dặn dò :
-"Con gái yêu quý của mẹ, khi mẹ từ giã cõi trần này, con hãy hứa với mẹ,
sớm sớm chiều chiều, soi gương này, con sẽ nhìn thấy mẹ và hiểu rằng mẹ
sẽ ở mãi trong đó để phù hộ cho con".
Người mẹ lấy chiếc gương đưa cho con gái. Cô gái hứa vâng lời bà rồi khóc
nức nở.
Từ đó, cô con gái ngoan ngoãn, không bao giờ quên lời trối trăn của mẹ.
Niềm vui nhất của cô là ngắm hình ảnh của mẹ trong gương và nói
rằng : "Mẹ ơi, hôm nay con đã làm được như mẹ mong muốn".
Tại vùng núi Matsu-Yama hẻo lánh, tỉnh Echigo, có đôi vợ chồng trẻ sống với
nhau. Họ sinh được một đứa con gái. Hai người rất mực thương con.
Một dạo, người bố lên kinh đô có việc. Khi trở về, anh tặng vợ một cái hộp
bằng gỗ trắng rất nhẵn. Mở hộp ra, chị thấy có một mảnh kim khí tròn; một
mặt thì trắng như bạc khảm, điểm những nét vẽ hình chim và lá; còn mặt kia
thì sáng như thủy tinh. Chị vợ xem, lấy làm thích thú và lạ lùng vì thấy trong
đáy gương có một khuôn mặt xinh đẹp với đôi môi hồng và đôi mắt sáng
như đang mỉm cười với mình.
Anh chồng giải thích cho chị hiểu đó là cái gương. Khuôn mặt người phụ nữ
trong ấy chính là khuôn mặt chị được phản ánh vào. Ở thành thị, mọi người
đều có một cái như thế này, còn ở đây chưa ai trông thấy.
Chị vợ say mê với món quà. Lần đầu tiên được thấy cái gương và cũng là
lần đầu tiên chị thấy khuôn mặt xinh đẹp của mình. Chị đem ra dùng xong lại
cất ngay nó vào hộp cẩn thận cùng với những thứ quý giá khác.
Mấy năm trôi qua. con gái ngày càng lớn, giống mẹ như đúc. Cô bé rất dễ
yêu, ngoan ngoãn, được mọi người thương mến. Nhớ lại mình đã có lúc
kiêu hãnh vì tự biết có sắc đẹp, người mẹ bèn cất chiếc gương rất kỹ, sợ
rằng con gái soi gương rồi sẽ có ý nghĩ tự kiêu.
Một hôm, người mẹ hiền dịu ấy lâm bệnh nặng. Biết không còn sống được
bao lâu nữa, bà gọi con gái đến gần và dặn dò :
-"Con gái yêu quý của mẹ, khi mẹ từ giã cõi trần này, con hãy hứa với mẹ,
sớm sớm chiều chiều, soi gương này, con sẽ nhìn thấy mẹ và hiểu rằng mẹ
sẽ ở mãi trong đó để phù hộ cho con".
Người mẹ lấy chiếc gương đưa cho con gái. Cô gái hứa vâng lời bà rồi khóc
nức nở.
Từ đó, cô con gái ngoan ngoãn, không bao giờ quên lời trối trăn của mẹ.
Niềm vui nhất của cô là ngắm hình ảnh của mẹ trong gương và nói
rằng : "Mẹ ơi, hôm nay con đã làm được như mẹ mong muốn".
Chủ Nhật, 13 tháng 9, 2015
MỘT CUỘC ĐUA TÀI
Năm 20 tuổi, tôi là một nữ điều dưỡng đang thực tập tại một
bệnh viện nhi.
So với viện tim hoặc bệnh viện đa khoa, công việc ở bệnh viện nhi đối với tôi
có vẻ dễ như trở bàn tay. Tôi vốn có khiếu kết bạn với trẻ con. Chắc chắn tôi
sẽ vượt qua dễ dàng và chỉ còn chờ ngày tốt nghiệp...
Chris là một cậu bé 8 tuổi vô cùng hiếu động. Cậu lén bố mẹ vào thám thính
công trường xây dựng cạnh nhà, và bị té gãy tay. Cánh tay gãy của cậu bị
nhiễm trùng, buộc phải cưa bỏ. Tôi được chỉ định làm y tá hậu phẩu của cậu
bé.
Khi sức khỏe của cậu bé dần dần khá lên cũng là lúc cậu đau khổ nhận ra
sự mất mát của mình... Cậu nằm một chỗ, chờ giúp đỡ, không chịu làm vệ
sinh cá nhân. Tôi nhẹ nhàng khích lệ: "Cháu đâu có ở mãi trong bệnh viện.
Cháu phải học cách tự phụ vụ...". Cậu bé giận dữ la lên: "Cháu có thể làm gì
được với một tay?" . Tôi vắt óc tìm một câu trả lời thích hợp. Cuối cùng tôi
bảo: "Dù sao cháu vẫn còn tay phải". " Nhưng cháu thuận tay trái " - Cậu bé
kêu lên đầy thất vọng...
Chưa bao giờ tôi cảm thấy mình vô dụng và vô tâm đến thế. Sao tôi lại
tưởng rằng mọi người đều thuận tay phải ...
Sáng hôm sau, tôi trở lại với một cuộn băng dính. Vòng cuộn băng quanh cổ
tay, tôi bảo cậu bé: "Cháu thuận tay trái, còn cô thuận tay phải. Cô sẽ dán
tay phải của cô vào hàng nút áo sau lưng của cháu. Bây giờ mỗi khi cô làm
việc gì bằng tay trái, cháu phải làm theo bằng tay phải. Nào, cháu muốn bắt
đầu bằng việc gì ?". Nhìn tôi với vẻ nghi ngờ, cậu bé càu nhàu: "Cháu mới
ngủ dậy, cháu cần đánh răng ". Tôi xoay xở mở nắp ống kem, đặt bàn chảy
lên bàn, tìm cách nặn kem lên chiếc bàn chảy đang ngả nghiêng... Sau gần
10 phút nỗ lực với kem vung vãi đầy trên bàn, tôi mới hoàn tất được công
việc. "Cháu có thể làm nhanh hơn..." - cậu bé tuyên bố. Và khi nhanh hơn
thật, cậu mỉm cười chiến thắng...
Hai tuần sau đó trôi qua nhanh chóng. Chúng tôi biến mọi công việc hàng
ngày thành những cuộc đua tài hào hứng. Chúng tôi cài nút áo, phết bơ kên
bánh mì, cột dây giày,... Không còn phân biệt tuổi tác, chúng tôi là 2 vận
động viên đang ra sức đua tài...
Lúc tôi hết thời gian thực tập cũng là lúc cậu bé rời bệnh viện, tự tin đối mặt
với cuộc sống... Khi hôn tạm biệt cậu bé, tôi không cầm được nước mắt...
Đã 30 năm trôi qua kể từ ngày ấy. Cuộc đời tôi đã bao phen chìm nổi. Mỗi
lần phải đương đầu với thử thách, tôi lại nhớ đến cậu bé. Và mỗi khi cảm
thấy mệt mỏi, nản lòng, tôi lại lẳng lặng vào phòng tắm, giấu tay phải ra sau,
lấy kem và đánh răng bằng tay trái.
So với viện tim hoặc bệnh viện đa khoa, công việc ở bệnh viện nhi đối với tôi
có vẻ dễ như trở bàn tay. Tôi vốn có khiếu kết bạn với trẻ con. Chắc chắn tôi
sẽ vượt qua dễ dàng và chỉ còn chờ ngày tốt nghiệp...
Chris là một cậu bé 8 tuổi vô cùng hiếu động. Cậu lén bố mẹ vào thám thính
công trường xây dựng cạnh nhà, và bị té gãy tay. Cánh tay gãy của cậu bị
nhiễm trùng, buộc phải cưa bỏ. Tôi được chỉ định làm y tá hậu phẩu của cậu
bé.
Khi sức khỏe của cậu bé dần dần khá lên cũng là lúc cậu đau khổ nhận ra
sự mất mát của mình... Cậu nằm một chỗ, chờ giúp đỡ, không chịu làm vệ
sinh cá nhân. Tôi nhẹ nhàng khích lệ: "Cháu đâu có ở mãi trong bệnh viện.
Cháu phải học cách tự phụ vụ...". Cậu bé giận dữ la lên: "Cháu có thể làm gì
được với một tay?" . Tôi vắt óc tìm một câu trả lời thích hợp. Cuối cùng tôi
bảo: "Dù sao cháu vẫn còn tay phải". " Nhưng cháu thuận tay trái " - Cậu bé
kêu lên đầy thất vọng...
Chưa bao giờ tôi cảm thấy mình vô dụng và vô tâm đến thế. Sao tôi lại
tưởng rằng mọi người đều thuận tay phải ...
Sáng hôm sau, tôi trở lại với một cuộn băng dính. Vòng cuộn băng quanh cổ
tay, tôi bảo cậu bé: "Cháu thuận tay trái, còn cô thuận tay phải. Cô sẽ dán
tay phải của cô vào hàng nút áo sau lưng của cháu. Bây giờ mỗi khi cô làm
việc gì bằng tay trái, cháu phải làm theo bằng tay phải. Nào, cháu muốn bắt
đầu bằng việc gì ?". Nhìn tôi với vẻ nghi ngờ, cậu bé càu nhàu: "Cháu mới
ngủ dậy, cháu cần đánh răng ". Tôi xoay xở mở nắp ống kem, đặt bàn chảy
lên bàn, tìm cách nặn kem lên chiếc bàn chảy đang ngả nghiêng... Sau gần
10 phút nỗ lực với kem vung vãi đầy trên bàn, tôi mới hoàn tất được công
việc. "Cháu có thể làm nhanh hơn..." - cậu bé tuyên bố. Và khi nhanh hơn
thật, cậu mỉm cười chiến thắng...
Hai tuần sau đó trôi qua nhanh chóng. Chúng tôi biến mọi công việc hàng
ngày thành những cuộc đua tài hào hứng. Chúng tôi cài nút áo, phết bơ kên
bánh mì, cột dây giày,... Không còn phân biệt tuổi tác, chúng tôi là 2 vận
động viên đang ra sức đua tài...
Lúc tôi hết thời gian thực tập cũng là lúc cậu bé rời bệnh viện, tự tin đối mặt
với cuộc sống... Khi hôn tạm biệt cậu bé, tôi không cầm được nước mắt...
Đã 30 năm trôi qua kể từ ngày ấy. Cuộc đời tôi đã bao phen chìm nổi. Mỗi
lần phải đương đầu với thử thách, tôi lại nhớ đến cậu bé. Và mỗi khi cảm
thấy mệt mỏi, nản lòng, tôi lại lẳng lặng vào phòng tắm, giấu tay phải ra sau,
lấy kem và đánh răng bằng tay trái.
Thứ Năm, 10 tháng 9, 2015
PACO, VỀ NHÀ ĐI CON
Alan Cohen
Trong một thị trấn nhỏ, một người cha cãi nhau với Paco – đứa con trai nhỏ
của mình. Vào sáng hôm sau, người cha phát hiện đứa con của mình đã bỏ
nhà ra đi.
Tràn ngập hối hận, người cha nhận thấy rằng đứa con trai thật sự quan trọng
hơn tất cả mọi điều trên thế gian này. Ông muốn sửa chữa lại mọi việc. Ông
đi tới một cửa hiệu nổi tiếng nhất thị trấn và treo một tấm biển "Paco, về nhà
đi con. Cha yêu con lắm. Hãy gặp cha ở đây vào sáng mai."
Sáng hôm sau, người cha đi đến cửa hiệu, ở đó đã có bẩy cậu bé cùng tên
Paco và cũng chạy trốn khỏi nhà mình. Những đứa trẻ này đã nghe được
tiếng gọi đầy tình thương, và mỗi đứa đều hy vọng đó chính là người cha
đang gọi mình về nhà với vòng tay rộng mở.
Trong một thị trấn nhỏ, một người cha cãi nhau với Paco – đứa con trai nhỏ
của mình. Vào sáng hôm sau, người cha phát hiện đứa con của mình đã bỏ
nhà ra đi.
Tràn ngập hối hận, người cha nhận thấy rằng đứa con trai thật sự quan trọng
hơn tất cả mọi điều trên thế gian này. Ông muốn sửa chữa lại mọi việc. Ông
đi tới một cửa hiệu nổi tiếng nhất thị trấn và treo một tấm biển "Paco, về nhà
đi con. Cha yêu con lắm. Hãy gặp cha ở đây vào sáng mai."
Sáng hôm sau, người cha đi đến cửa hiệu, ở đó đã có bẩy cậu bé cùng tên
Paco và cũng chạy trốn khỏi nhà mình. Những đứa trẻ này đã nghe được
tiếng gọi đầy tình thương, và mỗi đứa đều hy vọng đó chính là người cha
đang gọi mình về nhà với vòng tay rộng mở.
HỘP GIẤY THỨ 11
Mục sư Bill Simpson
Bạn nhớ nhất ngày lễ Tạ ơn nào mà bạn đã trải qua trong đời mình? Tôi xin
kể lại câu chuyện của tôi. Vào ngày đó, nhà thờ ghi danh sách mười gia
đình nghèo nhất để phát mười hộp thức ăn. Khi chúng tôi gói những hộp
thức ăn này trong hội từ thiện thì những gia đình đang chờ đợi một cách
sung sướng. Những hộp thức ăn này là những thức ăn ngon nhất đối với họ
trong nhiều tháng nay. Khi họ đang lấy hộp thức ăn của mình, một gia đình
lại vừa mới tới. Cha, mẹ và ba đứa trẻ bước ra khỏi một chiếc xe tải cũ kỹ
và bước vào trong phòng. Họ là một gia đình mới, không có tên trong danh
sách. Họ nghe nói nhà thờ có phân phát thức ăn.
Tôi giải thích rằng chúng tôi không có dư thức ăn cho một gia đình nữa. Khi
tôi cố gắng nói với họ rằng tôi sẽ làm hết sức mình, một điều kỳ diệu đã xảy
ra. Không nói một lời, một người đàn bà đặt xuống hộp thức ăn của mình rồi
nhanh chóng tìm một hộp không để bên cạnh. Bà ta chuyển một số đồ từ
hộp thức ăn của bà ta vào hộp không này. Ngay sau đó những người khác
cũng làm theo bà ta, và những người nghèo khổ này đã có được hộp thứ 11
cho gia đình mới.
Bạn nhớ nhất ngày lễ Tạ ơn nào mà bạn đã trải qua trong đời mình? Tôi xin
kể lại câu chuyện của tôi. Vào ngày đó, nhà thờ ghi danh sách mười gia
đình nghèo nhất để phát mười hộp thức ăn. Khi chúng tôi gói những hộp
thức ăn này trong hội từ thiện thì những gia đình đang chờ đợi một cách
sung sướng. Những hộp thức ăn này là những thức ăn ngon nhất đối với họ
trong nhiều tháng nay. Khi họ đang lấy hộp thức ăn của mình, một gia đình
lại vừa mới tới. Cha, mẹ và ba đứa trẻ bước ra khỏi một chiếc xe tải cũ kỹ
và bước vào trong phòng. Họ là một gia đình mới, không có tên trong danh
sách. Họ nghe nói nhà thờ có phân phát thức ăn.
Tôi giải thích rằng chúng tôi không có dư thức ăn cho một gia đình nữa. Khi
tôi cố gắng nói với họ rằng tôi sẽ làm hết sức mình, một điều kỳ diệu đã xảy
ra. Không nói một lời, một người đàn bà đặt xuống hộp thức ăn của mình rồi
nhanh chóng tìm một hộp không để bên cạnh. Bà ta chuyển một số đồ từ
hộp thức ăn của bà ta vào hộp không này. Ngay sau đó những người khác
cũng làm theo bà ta, và những người nghèo khổ này đã có được hộp thứ 11
cho gia đình mới.
Thứ Hai, 7 tháng 9, 2015
Chiếc là cuối cùng
Trong một quận nhỏ phia đông Washington , các con đường chạy ngoằn
nghoèo một cách điên dại, cắt quãng thành những dải nhỏ gọi là “vùng”.
Những “vùng” này lọt thỏm trong những góc và đường cong lạ kì. Một con
đương cắt ngang với chính nó một, hai lần. Một hoạ sĩ đã có lần khám phá
là con đường có thể có giá. Ví dụ như khi một nhân viên thu ngân cầm hoá
đơn của mầu vẽ, giấy và vải, sau khi đi dọc theo đường này bỗng thấy mình
đã đi vòng lại chỗ cũ mà không hề thu được một xu nào cả!
Thế nên đám hoạ sĩ chẳng bao lâu đã kéo đến phường Greenwich, săn lùng
phòng cho thuê có cửa sổ thông ra hướng bắc, góc mái kiểu thế kỷ 18, gác
lửng kiểu Hà Lan, và giá thuê lại rẻ. Sau đấy họ mang vào vài lọ hợp kim
thiếc, một hai cái chảo nấu ăn dã chiến, và thế là một “quần cư” thành hình.
Hai cô Sue và Johnsy cùng thuê chung một căn phòng đơn giản ở tầng trên
cùng của một toà nhà ba tầng lụp xụp. “Johnsy” thực ra là tên thân mật của
California .
Họ đã gặp nhau tại một hiệu ăn trên đường Số Tám, và khám phá
ra là họ có những sở thích tương đồng về nghệ thuật, rau diếp xoắn trộn
dấm, và thời trang với tay áo giám mục. Thế là họ cùng thuê chung một căn
phòng.
Đấy là vào Tháng 5 . Vào tháng 11, có một kẻ ngoại nhập mang theo giá lạnh
nhưng vô hình, mà các bác sĩ gọi là Viêm Phổi, rình rập trong “quần cư”,
móng vuốt giá băng quệt vào đây đó. Tên giặc đã ngang nhiên hoành hành
khu phía đông, hạ gục nhiều nạn nhân, nhưng hắn chỉ mới đặt chân chầm
chậm qua các lối ngõ như bàn cờ của mấy “vùng” nhỏ hẹp phủ đầy rêu.
Bạn sẽ không xem Thần Viêm Phổi như một quân tử già đầy hào hiệp.
Người con gái nhỏ vốn đã mất máu vì những trận gió ở Califỏnia thì lẽ ra
không đáng cho một kẻ bất tài già nua bận tâm đến. Nhưng hắn đã tấn công
Johnsy. Thế là cô nằm bẹp, không mấy cử động, trên chiếc giường sắt,
xuyên qua khung cửa sổ kiểu Hà Lan nhìn ra bức tường trơ trụi của căn nhà
gạch kế bên.
Một buổi sáng, vị bác sĩ đầy bận rộn mời Sue ra hành lang. Ông đang vẩy cái
nhiệt kế thăm bệnh để mực thuỷ ngân trong đó hạ xuống.
- Cơ may khởi bệnh của cô ấy áng chừng chỉ một phần mười. Và cơ may
này là tuỳ vào việc cô ấy có ý chí muốn sống hay không. Với cách con bệnh
chỉ ngóng chờ công ty mai táng đến thì sách thuốc nào cũng vô dụng. Cô
bạn nhỏ của cô đã bị ám ảnh là cô ấy sẽ không qua khỏi. Cô ấy có ý định gì
không?
- Chị ấy... chị ấy muốn có ngày nào đó vẽ tranh phong cảnh vịnhNaples .
- Vẽ tranh à? Thật là điên rồ! Cô ấy có bận tâm nặng nề về việc gì không,
chẳng hạn về một người đàn ông nào đó?
Cô Sue khịt mũi:
- Một người đàn ông à? Một người đàn ông thì có thể... mà không, bác sĩ ạ,
không có chuyện như thế.
Vị bác sĩ nói:
- Thế thì là do cô ấy quá yếu rồi. Tôi sẽ cố làm mọi cách mà khoa học cho
phép. Nhưng mỗi khi con bệnh của tôi bắt đầu nhẩm tính số lượng xe trong
chuyến đưa đám của họ thì xem như hiệu lực của thuốc men chỉ còn một
nửa. Nếu cô có cách khiến cho cô ấy hỏi han cô về thời trang mua đông thì
tôi có thể đoán chắc cơ may là một phần năm, thay vì là một phần mười.
Sau khi vị bác sĩ đi khỏi, Sue đi vào phòng vẽ và khóc cho đến khi cái khăn
giấy Nhật tơi tả thành bột giấy. Rồi cô đường bệ đi vào phòng của Johnsy
với cái giá vẽ, miệng huýt sáo một điệu dân ca Mỹ rộn ràng.
Johnsy vẫn nằm bẹp, xem chừng không động đậy chút nào dưới tấm vải
giường, mặt hướng về cái cửa sổ. Sue ngưng huýt sáo, nghĩ là bạn mình
đang ngủ. Cô sắp xếp giá vẽ và bắt đầu dùng viết và mực để vẽ hình minh
hoạ cho một truyện để đăng trong một tạp chí. Trong khi các hoạ sĩ trẻ tuổi
phải dọn đường cho Hội Hoạ bằng cách vẽ tranh cho truyện ấy để dọn
đường cho Văn Chương. Khi Sue đang phác hoạ cái quần bảnh bao và gọng
kinh một tròng của một anh hùng (một tay cao bồi bang Idaho), cô nghe một
tiếng nho nhỏ, lặp lại vài lần.
Cô đi vội đến bên mép giường. Johnsy đang mở mắt, nhìn ra cửa sổ, và
đang đếm, đếm ngược: “mười hai”, và ít lâu sau: “mười một”, và sau
đấy “mười”, rồi “chín”, rồi “tám” và “bảy” gần như liền nhau.
Sue nhìn chăm chú bên ngoài cửa sổ. Có gì ở ngoài đấy đâu mà đếm? Chỉ
có một khoảng sân trống buồn nản, và bức tường trơ trụi của một căn nhà
gạch xa hơn chừng mười thước. Một dây thường xuân thật già cỗi, gốc vặn
vẹo mục nát, leo đến giữa bức tường gạch. Ngọn gió thu lạnh đã làm rơi
rụng đám lá, phơi bầy các nhánh gần như trơ trụi bám vào mấy mảng gạch
vụn vỡ. Sue hỏi?
- Cái gì vậy hở bồ?
Johnsy nói, gần như thì thầm:
- Sáu. Bây giờ rơi nhanh quá. Ba ngày trước còn gần cả trăm, đếm muốn
nhức đầu. Nhưng giờ thì dễ rồi. Thêm chiếc nữa. Giờ chỉ còn lại năm.
- Năm cái gì, noi cho Sue của bồ nghe nào!
- Năm chiếc lá. Trên cây thường Xuân. Khi chiếc lá cuối cùng rụng thì mình
cũng sẽ ra đi. Minh đã biết như thế ba ngày nay rồi. Bác sĩ không nói cho
bạn biết à.
Sue càu nhàu, với giọng khinh miệt cao quý.
- Ô hay! Minh chưa bao giờ nghe có chuyện điên khùng như vậy. Mấy cái lá
thường Xuân thì có liên hệ gì đến việc bồ khỏi bệnh đâu nào? Và bồ vẫn thích
cái cây này, cô nàng hư đốn ơi! Đừng có ngốc nghếch. Sáng nay ông bác sĩ
nới với mình là cơ may của bồ khỏi bệnh hẳn... xem ông ấy nói gì nào... ông
ấy nói cơ may chính xácd là mười trong một! Đấy cũng bằng với cơ may
chúng mình có ơNew York
để đáp tầu điện hay đi qua một toà nhà mới. Bây
giờ ăn một tí cháo, rồi mua ít tượu vang poóc-tô cho cô bé đang bệnh, và thịt
lợn cho chính tác giả ăn.
Johnsy vẫn dán mắt ra ngoài cửa sổ:
- Không cần phải mua rượu vang. Thêm một chiếc nữa. Không, mình không
muốn ăn cháo. Thế là còn có bốn. Mình muốn xem chiếc lá cuối cùng trước
khi trời tối. Khi ấy mình cũng sẽ ra đi.
Sue nghiêng mình trên cô:
- Johnsy ơi, bồ có thể hứa nhắm mắt lại và không nhìn ra ngoài cửa sổ khi
mình làm việc được không? Ngày mai mình phải đi giao mấy bức vẽ. Minh
cần ánh sáng, nếu không mình phải kéo rèm xuống.
Johnsy hỏi, giọng lạnh tanh:
- Bạn có thể vẽ trong phòng kia được không?
- Mình muốn ở kề bên bồ. Hơn nữa, mình không muốn bồ cứ nhìn mãi mấy
chiếc lá thường Xuân vô duyên đó.
- Cho mình biết khi nào bạn làm xong, vì mình muốn xem chiếc lá cuối cùng
rụng xuống. Mình chán chờ đợi rồi. Mình chán suy nghĩ. Mình muốn buông
xuôi tất cả, và thả người trôi xuống, xuống nữa, như là một trong mấy chiếc
lá mệt mỏi kia.
Johnsy nhắm mắt lại, mặt tái nhợt, năm yên như la một cái tượng bị sập đổ.
- Ráng ngủ đi. Mình muốn kêu ông Behrman lên để ngồi mẫu cho mình vẽ
một ông thợ mỏ già cô độc. Mình chỉ đi một phút. Đừng cựa quậy cho đến
khi mình trở lại.
Ông già Behrman là một hoạ sĩ sống ở tầng trệt bên dưới phòng của họ.
Ông đã quá sáu mươi, và có một chòm râu rậm như ông Moses hiện thân
trên bức điêu khắc của Michael Angelo. Behrman là cả một sự thất bại trong
nghệ thuật. Trong bốn mươi năm ông vung vẩy chiếc cọ mà không hề chạm
gần đến vạt áo của Người Tình. Ông luôn luôn muốn vẽ nên một kiệt tác,
nhưng chưa bao giờ bắt đầu. Trong vài năm nay ông không vẽ được gì ngoại
trừ thỉnh thoảng ít nét quấy quá cho giới thương mại và quảng cáo. Ông
kiếm tiền chút đỉnh bằng việc ngồi làm mẫu cho các hoạ sĩ trẻ trong quần cư
khi họ không muốn trả theo giá của người mẫu chuyên nghiệp. Ông uống
rượu gin lu bù, và vẫn nói đến kiệt tác sắp đến của ông. Còn lại thì Behrnam
là một ông già nhỏ thó nhưng dữ tợn, hay chửi như té tát người nào tỏ ra
yếu đuối, và xem mình như là con chó giữ nhà để bảo vệ cho hai hoạ sĩ trẻ
sống ở tấng trên.
Sue tìm gặp behrman khi ông nồng nặc mùi rượu dâu trong căn phòng nhỏ
tối tù mù. Trong một góc là cái giá vẽ với khung vải trống trơn, suốtt hai
mươi lăm năm vẫn chờ đợi đường nét đầu tiên của một kiệt tác. Cô nói cho
ông nghe về chuyện hão huyền của Johnsy, về việc cô nàng – quả thật nhẹ
tênh và mỏng manh như một chiếc lá - sẽ trôi đi khi sự bám víu của cô vào
trần thế vốn đã yếu sẽ yếu thêm.
Ông già Behrman, với cặp mắt đỏ sòng sọc, lớn tiếng kinh thường và chế
diễu cho những điều tưởng tượng ngốc nghếch:
- Khốn khổ! ở đời sao lại có người ngu xuẩn muốn chết vì mấy cái lá rụng từ
một dây leo vô duyên như vậy? Tao chưa bao giờ nghe có chuyện này.
Không tao sẽ không ngòi làm mẫu cho một đứa ẩn cưa ngu ngốc như mày.
Tại sao mày lại để ý tưởng khùng điên đấy đi vào đầu của nó? Ôi dào, cái
con nhỏ Johnsy khốn khổ!
- Chị ấy đang yếu lắm, và cơn sốt làm cho đầu óc chị ấy trở nên bệnh hoạn
đầy những mơ tưởng kỳ quái. Được rồi, nếu ông không muốn ngồi làm mẫu
cho tôi cũng được. Nhưng tôi nghĩ ông là một ông già xấu tính – già vô tích
sự.
Ông Behrman tru tréo lên:
- Mày đúng là đàn bà! Ai bảo tao không muốn ngồi làm mẫu? Đi lên đi. Tao
sẽ đến. Cả nửa giờ đồng hồ rồi tao đã nói là tao sẵn sàng ngồi. Trời ơi! Đây
không phải là chỗ cô Johnsy có thể năm bẹp dưỡng bệnh được. Một ngày
nào đấy tao sẽ vẽ nên một kiệt tác, và bọn mình sẽ rời đi nơi khác. Trời ơi!
Đúng là phải như thế.
Johnst đang ngủ khi họ lên. Sue buông cái rèm cửa xuống, ra dấu bảo
Behrman đi vào phòng kia. Trong đấy, xuyên qua khung cửa sổ họ nhìn dây
thường
Xuân với nỗi lo sợ. Rồi họ nhìn nhau một lúc, không nói lời nào. Một cơn
mưa giá lạnh đang ập xuống dai dẳng, pha cùng với tuyết. Trong chiếc áo
xanh cũ kỹ, Behrman ngồi làm mẫu, giả làm một thợ mỏ ẩn cư, ngồi trên
một cái ấm lật ngược giả làm một tảng đá.
Khi Sue thức giấc vào buổi sáng sau giấc ngủ kéo dài một giờ, cô thấy
Johnsy đang vô hòn nhìn cái rèm màu sậm đã buông xuống. Johnsy thì thào:
- Kéo rèm lên. Mình muốn nhìn.
Sue mệt mỏi làm theo bạn.
- Nhưng xem kìa! Sau trận mưa vùi dập và những cơn gió xoáy dữ tợn suốt
một đêm dài, vẫn còn một chiếc lá thường Xuân dựa trên bức tường gạch.
Đấy là chiếc lá cuối cùng. Vẫn còn có mầu xanh thẫm gần cuống, nhưng với
phần rìa te tua pha mầu vàng của sự tàn tạ, chiếc lá vẫn dũng cảm bám vào
cái cành cao dăm bảy mét cách mặt đất.
Johnsy nói:
- Đấy là chiếc lá cuối cùng. Mình nghĩ chắc chắn nó đã rụng đêm qua. Mình
nghe tiếng gió. Nó sẽ rụng hôm nay, và mình sẽ chết cùng lúc với nó.
Sue nghiêng khuôn mặt tóp của cô kề cận cái gối:
- Cưng ơi là cưng! Nếu cưng không nghĩ đến chính bản thân cưng thì nên
nghĩ đến mình đây. Mình sẽ làm được gì chứ?
Nhưng Johnsy không trả lời. Nỗi cô đơn cùng cực nhất trên thế gian là một
linh hồn chuẩn bị tiếp tục cuộc hành trình bí ẩn, xa thẳm. Điều mộng tưởng
dường như đã ảm ảnh cô mạnh mẽ hơn khi những dây nối buộc cô với tình
bạn và với trần thế đã bị lơi lỏng.
Ngày dần trôi, và dù qua khoảng không xám xịt, họ vẫn thấy chiếc lá đơn
độc bảm vào cuống của nó, dựa vào bức tường. Và rồi, khi màn đêm buông
xuống, gió bắc lại thổi, trong khi mưa vẫn đập vào các cửa sổ, chảy ồng ộc
xuống theo rìa mái nhà kiểu Hà Lan.
Khi đã có đủ ánh sáng buổi tinh sương, Johnsy, con người vô cảm, lại ra
lệnh kéo cái rèm xuống.
Chiếc lá thường Xuôn vẫn còn đấy.
Johnsy nằm một hồi lâu nhìn nó. Và rồi cô gọi Sue, đang quậy nồi cháo ga
trên cái bếp ga. Cô nói:
- Minh là đứa hư, Sue à. Có cái gì đó đã khiến chiếc lá vẫn ở đấy để cho
thấy mình quả là độc ác. Muốn chết là một cái tội. Bây giờ bồ có thể mang
cho mình chút cháo, và ít sữa pha chút rượu vang póc-tô, và... không, mang
trước cho mình cái gương soi cầm tay, rồi chèn ít cái gối quanh mình, rồi
mình sẽ ngồi lên để xem bồ nấu nướng.
Một giờ sau, cô nói:
- Sue à, một ngày nào đấy mình sẽ vẽ cảnh vịnhNaples .
Ông bác sĩ đến vào buổi xế chiều, và khi ông trở ra Sue có cớ để đi ra ngoài
hành lanh. Ông nắm lấy bàn tay gầy, run rẩy của Sue đặt trong tay ông.
- Cơ may ngang bằng. Với công chăm sóc tận tuỵ của cô, cô sẽ thắng. Và
giờ tôi phải đến thăm một ca khác ở tầng dưới. Người bệnh là Behrman –
tôi nghĩ chừng đâu là một hoạ sĩ. Cũng viêm phổi. Ông ta già cả, yếu đuối,
cơn bệnh lại là cấp tính. Không có hi vọng gì, nhưng tôi sẽ đưa ông đến
bệnh viện để được thoải mái hơn.
Ngày kế, ông bác sĩ bảo Sue:
- Cô ấy qua khỏi cơn nguy rồi. Cô đã thắng. Bây giờ chỉ cần dinh dưỡng và
chăm sóc – chỉ có thế thôi.
Buổi chiều ấy, khi Johsy đang đan một cái khăn quàng len mầu lam thật
đậm và xem vẻ rất vô dụng, Sue đến bên giường cô, đặt cánh tay quanh cô
và cũng quanh mấy cái gối.
- Mình có chuyện này nói cho bồ biết, cái con chuột trắng ơi. Ông Behrman
qua đời hôm nay ở bệnh viện vì chứng viêm phổi. Ông ấy nhuốm bệnh chỉ
trong có hai ngày. Người gác dan tìm thấy ông sáng ngày đầu tiên trong căn
phòng tầng dưới, thất thủ với cân đau đớn. Đôi giầy và quần áo ông ấy bị
ướt cả, lạnh như nước đá. Họ không thể hiểu nổi ông đã đi đâu trong một
đêm kinh hoàng như thế. Và rồi họ tìm thấy cái đèn bão, vẫn cháy, và một
cái thang đã bị rời khỏi nơi cất giữ, vài cây cọ tơi tả, và nghiên mầu mới ít
mầu xanh và vàng, bồ nhìn ra ngoài cửa sổ xem, nhìn chiếc lá thường Xuân
cuối cùng trên bức tường đấy. Bồ có đặt nghi vấn tại sao nó không bao giờ
bay lất phất khi có gió thổi không? Cưng ơi, đó là kiệt tác của ông Behrman
đấy - ông đã vẽ nó đúng vào đêm chiếc lá cuối cùng rơi rụng.
Regards, Guest!
nghoèo một cách điên dại, cắt quãng thành những dải nhỏ gọi là “vùng”.
Những “vùng” này lọt thỏm trong những góc và đường cong lạ kì. Một con
đương cắt ngang với chính nó một, hai lần. Một hoạ sĩ đã có lần khám phá
là con đường có thể có giá. Ví dụ như khi một nhân viên thu ngân cầm hoá
đơn của mầu vẽ, giấy và vải, sau khi đi dọc theo đường này bỗng thấy mình
đã đi vòng lại chỗ cũ mà không hề thu được một xu nào cả!
Thế nên đám hoạ sĩ chẳng bao lâu đã kéo đến phường Greenwich, săn lùng
phòng cho thuê có cửa sổ thông ra hướng bắc, góc mái kiểu thế kỷ 18, gác
lửng kiểu Hà Lan, và giá thuê lại rẻ. Sau đấy họ mang vào vài lọ hợp kim
thiếc, một hai cái chảo nấu ăn dã chiến, và thế là một “quần cư” thành hình.
Hai cô Sue và Johnsy cùng thuê chung một căn phòng đơn giản ở tầng trên
cùng của một toà nhà ba tầng lụp xụp. “Johnsy” thực ra là tên thân mật của
ra là họ có những sở thích tương đồng về nghệ thuật, rau diếp xoắn trộn
dấm, và thời trang với tay áo giám mục. Thế là họ cùng thuê chung một căn
phòng.
Đấy là vào Tháng 5 . Vào tháng 11, có một kẻ ngoại nhập mang theo giá lạnh
nhưng vô hình, mà các bác sĩ gọi là Viêm Phổi, rình rập trong “quần cư”,
móng vuốt giá băng quệt vào đây đó. Tên giặc đã ngang nhiên hoành hành
khu phía đông, hạ gục nhiều nạn nhân, nhưng hắn chỉ mới đặt chân chầm
chậm qua các lối ngõ như bàn cờ của mấy “vùng” nhỏ hẹp phủ đầy rêu.
Bạn sẽ không xem Thần Viêm Phổi như một quân tử già đầy hào hiệp.
Người con gái nhỏ vốn đã mất máu vì những trận gió ở Califỏnia thì lẽ ra
không đáng cho một kẻ bất tài già nua bận tâm đến. Nhưng hắn đã tấn công
Johnsy. Thế là cô nằm bẹp, không mấy cử động, trên chiếc giường sắt,
xuyên qua khung cửa sổ kiểu Hà Lan nhìn ra bức tường trơ trụi của căn nhà
gạch kế bên.
Một buổi sáng, vị bác sĩ đầy bận rộn mời Sue ra hành lang. Ông đang vẩy cái
nhiệt kế thăm bệnh để mực thuỷ ngân trong đó hạ xuống.
- Cơ may khởi bệnh của cô ấy áng chừng chỉ một phần mười. Và cơ may
này là tuỳ vào việc cô ấy có ý chí muốn sống hay không. Với cách con bệnh
chỉ ngóng chờ công ty mai táng đến thì sách thuốc nào cũng vô dụng. Cô
bạn nhỏ của cô đã bị ám ảnh là cô ấy sẽ không qua khỏi. Cô ấy có ý định gì
không?
- Chị ấy... chị ấy muốn có ngày nào đó vẽ tranh phong cảnh vịnh
- Vẽ tranh à? Thật là điên rồ! Cô ấy có bận tâm nặng nề về việc gì không,
chẳng hạn về một người đàn ông nào đó?
Cô Sue khịt mũi:
- Một người đàn ông à? Một người đàn ông thì có thể... mà không, bác sĩ ạ,
không có chuyện như thế.
Vị bác sĩ nói:
- Thế thì là do cô ấy quá yếu rồi. Tôi sẽ cố làm mọi cách mà khoa học cho
phép. Nhưng mỗi khi con bệnh của tôi bắt đầu nhẩm tính số lượng xe trong
chuyến đưa đám của họ thì xem như hiệu lực của thuốc men chỉ còn một
nửa. Nếu cô có cách khiến cho cô ấy hỏi han cô về thời trang mua đông thì
tôi có thể đoán chắc cơ may là một phần năm, thay vì là một phần mười.
Sau khi vị bác sĩ đi khỏi, Sue đi vào phòng vẽ và khóc cho đến khi cái khăn
giấy Nhật tơi tả thành bột giấy. Rồi cô đường bệ đi vào phòng của Johnsy
với cái giá vẽ, miệng huýt sáo một điệu dân ca Mỹ rộn ràng.
Johnsy vẫn nằm bẹp, xem chừng không động đậy chút nào dưới tấm vải
giường, mặt hướng về cái cửa sổ. Sue ngưng huýt sáo, nghĩ là bạn mình
đang ngủ. Cô sắp xếp giá vẽ và bắt đầu dùng viết và mực để vẽ hình minh
hoạ cho một truyện để đăng trong một tạp chí. Trong khi các hoạ sĩ trẻ tuổi
phải dọn đường cho Hội Hoạ bằng cách vẽ tranh cho truyện ấy để dọn
đường cho Văn Chương. Khi Sue đang phác hoạ cái quần bảnh bao và gọng
kinh một tròng của một anh hùng (một tay cao bồi bang Idaho), cô nghe một
tiếng nho nhỏ, lặp lại vài lần.
Cô đi vội đến bên mép giường. Johnsy đang mở mắt, nhìn ra cửa sổ, và
đang đếm, đếm ngược: “mười hai”, và ít lâu sau: “mười một”, và sau
đấy “mười”, rồi “chín”, rồi “tám” và “bảy” gần như liền nhau.
Sue nhìn chăm chú bên ngoài cửa sổ. Có gì ở ngoài đấy đâu mà đếm? Chỉ
có một khoảng sân trống buồn nản, và bức tường trơ trụi của một căn nhà
gạch xa hơn chừng mười thước. Một dây thường xuân thật già cỗi, gốc vặn
vẹo mục nát, leo đến giữa bức tường gạch. Ngọn gió thu lạnh đã làm rơi
rụng đám lá, phơi bầy các nhánh gần như trơ trụi bám vào mấy mảng gạch
vụn vỡ. Sue hỏi?
- Cái gì vậy hở bồ?
Johnsy nói, gần như thì thầm:
- Sáu. Bây giờ rơi nhanh quá. Ba ngày trước còn gần cả trăm, đếm muốn
nhức đầu. Nhưng giờ thì dễ rồi. Thêm chiếc nữa. Giờ chỉ còn lại năm.
- Năm cái gì, noi cho Sue của bồ nghe nào!
- Năm chiếc lá. Trên cây thường Xuân. Khi chiếc lá cuối cùng rụng thì mình
cũng sẽ ra đi. Minh đã biết như thế ba ngày nay rồi. Bác sĩ không nói cho
bạn biết à.
Sue càu nhàu, với giọng khinh miệt cao quý.
- Ô hay! Minh chưa bao giờ nghe có chuyện điên khùng như vậy. Mấy cái lá
thường Xuân thì có liên hệ gì đến việc bồ khỏi bệnh đâu nào? Và bồ vẫn thích
cái cây này, cô nàng hư đốn ơi! Đừng có ngốc nghếch. Sáng nay ông bác sĩ
nới với mình là cơ may của bồ khỏi bệnh hẳn... xem ông ấy nói gì nào... ông
ấy nói cơ may chính xácd là mười trong một! Đấy cũng bằng với cơ may
chúng mình có ơ
giờ ăn một tí cháo, rồi mua ít tượu vang poóc-tô cho cô bé đang bệnh, và thịt
lợn cho chính tác giả ăn.
Johnsy vẫn dán mắt ra ngoài cửa sổ:
- Không cần phải mua rượu vang. Thêm một chiếc nữa. Không, mình không
muốn ăn cháo. Thế là còn có bốn. Mình muốn xem chiếc lá cuối cùng trước
khi trời tối. Khi ấy mình cũng sẽ ra đi.
Sue nghiêng mình trên cô:
- Johnsy ơi, bồ có thể hứa nhắm mắt lại và không nhìn ra ngoài cửa sổ khi
mình làm việc được không? Ngày mai mình phải đi giao mấy bức vẽ. Minh
cần ánh sáng, nếu không mình phải kéo rèm xuống.
Johnsy hỏi, giọng lạnh tanh:
- Bạn có thể vẽ trong phòng kia được không?
- Mình muốn ở kề bên bồ. Hơn nữa, mình không muốn bồ cứ nhìn mãi mấy
chiếc lá thường Xuân vô duyên đó.
- Cho mình biết khi nào bạn làm xong, vì mình muốn xem chiếc lá cuối cùng
rụng xuống. Mình chán chờ đợi rồi. Mình chán suy nghĩ. Mình muốn buông
xuôi tất cả, và thả người trôi xuống, xuống nữa, như là một trong mấy chiếc
lá mệt mỏi kia.
Johnsy nhắm mắt lại, mặt tái nhợt, năm yên như la một cái tượng bị sập đổ.
- Ráng ngủ đi. Mình muốn kêu ông Behrman lên để ngồi mẫu cho mình vẽ
một ông thợ mỏ già cô độc. Mình chỉ đi một phút. Đừng cựa quậy cho đến
khi mình trở lại.
Ông già Behrman là một hoạ sĩ sống ở tầng trệt bên dưới phòng của họ.
Ông đã quá sáu mươi, và có một chòm râu rậm như ông Moses hiện thân
trên bức điêu khắc của Michael Angelo. Behrman là cả một sự thất bại trong
nghệ thuật. Trong bốn mươi năm ông vung vẩy chiếc cọ mà không hề chạm
gần đến vạt áo của Người Tình. Ông luôn luôn muốn vẽ nên một kiệt tác,
nhưng chưa bao giờ bắt đầu. Trong vài năm nay ông không vẽ được gì ngoại
trừ thỉnh thoảng ít nét quấy quá cho giới thương mại và quảng cáo. Ông
kiếm tiền chút đỉnh bằng việc ngồi làm mẫu cho các hoạ sĩ trẻ trong quần cư
khi họ không muốn trả theo giá của người mẫu chuyên nghiệp. Ông uống
rượu gin lu bù, và vẫn nói đến kiệt tác sắp đến của ông. Còn lại thì Behrnam
là một ông già nhỏ thó nhưng dữ tợn, hay chửi như té tát người nào tỏ ra
yếu đuối, và xem mình như là con chó giữ nhà để bảo vệ cho hai hoạ sĩ trẻ
sống ở tấng trên.
Sue tìm gặp behrman khi ông nồng nặc mùi rượu dâu trong căn phòng nhỏ
tối tù mù. Trong một góc là cái giá vẽ với khung vải trống trơn, suốtt hai
mươi lăm năm vẫn chờ đợi đường nét đầu tiên của một kiệt tác. Cô nói cho
ông nghe về chuyện hão huyền của Johnsy, về việc cô nàng – quả thật nhẹ
tênh và mỏng manh như một chiếc lá - sẽ trôi đi khi sự bám víu của cô vào
trần thế vốn đã yếu sẽ yếu thêm.
Ông già Behrman, với cặp mắt đỏ sòng sọc, lớn tiếng kinh thường và chế
diễu cho những điều tưởng tượng ngốc nghếch:
- Khốn khổ! ở đời sao lại có người ngu xuẩn muốn chết vì mấy cái lá rụng từ
một dây leo vô duyên như vậy? Tao chưa bao giờ nghe có chuyện này.
Không tao sẽ không ngòi làm mẫu cho một đứa ẩn cưa ngu ngốc như mày.
Tại sao mày lại để ý tưởng khùng điên đấy đi vào đầu của nó? Ôi dào, cái
con nhỏ Johnsy khốn khổ!
- Chị ấy đang yếu lắm, và cơn sốt làm cho đầu óc chị ấy trở nên bệnh hoạn
đầy những mơ tưởng kỳ quái. Được rồi, nếu ông không muốn ngồi làm mẫu
cho tôi cũng được. Nhưng tôi nghĩ ông là một ông già xấu tính – già vô tích
sự.
Ông Behrman tru tréo lên:
- Mày đúng là đàn bà! Ai bảo tao không muốn ngồi làm mẫu? Đi lên đi. Tao
sẽ đến. Cả nửa giờ đồng hồ rồi tao đã nói là tao sẵn sàng ngồi. Trời ơi! Đây
không phải là chỗ cô Johnsy có thể năm bẹp dưỡng bệnh được. Một ngày
nào đấy tao sẽ vẽ nên một kiệt tác, và bọn mình sẽ rời đi nơi khác. Trời ơi!
Đúng là phải như thế.
Johnst đang ngủ khi họ lên. Sue buông cái rèm cửa xuống, ra dấu bảo
Behrman đi vào phòng kia. Trong đấy, xuyên qua khung cửa sổ họ nhìn dây
thường
Xuân với nỗi lo sợ. Rồi họ nhìn nhau một lúc, không nói lời nào. Một cơn
mưa giá lạnh đang ập xuống dai dẳng, pha cùng với tuyết. Trong chiếc áo
xanh cũ kỹ, Behrman ngồi làm mẫu, giả làm một thợ mỏ ẩn cư, ngồi trên
một cái ấm lật ngược giả làm một tảng đá.
Khi Sue thức giấc vào buổi sáng sau giấc ngủ kéo dài một giờ, cô thấy
Johnsy đang vô hòn nhìn cái rèm màu sậm đã buông xuống. Johnsy thì thào:
- Kéo rèm lên. Mình muốn nhìn.
Sue mệt mỏi làm theo bạn.
- Nhưng xem kìa! Sau trận mưa vùi dập và những cơn gió xoáy dữ tợn suốt
một đêm dài, vẫn còn một chiếc lá thường Xuân dựa trên bức tường gạch.
Đấy là chiếc lá cuối cùng. Vẫn còn có mầu xanh thẫm gần cuống, nhưng với
phần rìa te tua pha mầu vàng của sự tàn tạ, chiếc lá vẫn dũng cảm bám vào
cái cành cao dăm bảy mét cách mặt đất.
Johnsy nói:
- Đấy là chiếc lá cuối cùng. Mình nghĩ chắc chắn nó đã rụng đêm qua. Mình
nghe tiếng gió. Nó sẽ rụng hôm nay, và mình sẽ chết cùng lúc với nó.
Sue nghiêng khuôn mặt tóp của cô kề cận cái gối:
- Cưng ơi là cưng! Nếu cưng không nghĩ đến chính bản thân cưng thì nên
nghĩ đến mình đây. Mình sẽ làm được gì chứ?
Nhưng Johnsy không trả lời. Nỗi cô đơn cùng cực nhất trên thế gian là một
linh hồn chuẩn bị tiếp tục cuộc hành trình bí ẩn, xa thẳm. Điều mộng tưởng
dường như đã ảm ảnh cô mạnh mẽ hơn khi những dây nối buộc cô với tình
bạn và với trần thế đã bị lơi lỏng.
Ngày dần trôi, và dù qua khoảng không xám xịt, họ vẫn thấy chiếc lá đơn
độc bảm vào cuống của nó, dựa vào bức tường. Và rồi, khi màn đêm buông
xuống, gió bắc lại thổi, trong khi mưa vẫn đập vào các cửa sổ, chảy ồng ộc
xuống theo rìa mái nhà kiểu Hà Lan.
Khi đã có đủ ánh sáng buổi tinh sương, Johnsy, con người vô cảm, lại ra
lệnh kéo cái rèm xuống.
Chiếc lá thường Xuôn vẫn còn đấy.
Johnsy nằm một hồi lâu nhìn nó. Và rồi cô gọi Sue, đang quậy nồi cháo ga
trên cái bếp ga. Cô nói:
- Minh là đứa hư, Sue à. Có cái gì đó đã khiến chiếc lá vẫn ở đấy để cho
thấy mình quả là độc ác. Muốn chết là một cái tội. Bây giờ bồ có thể mang
cho mình chút cháo, và ít sữa pha chút rượu vang póc-tô, và... không, mang
trước cho mình cái gương soi cầm tay, rồi chèn ít cái gối quanh mình, rồi
mình sẽ ngồi lên để xem bồ nấu nướng.
Một giờ sau, cô nói:
- Sue à, một ngày nào đấy mình sẽ vẽ cảnh vịnh
Ông bác sĩ đến vào buổi xế chiều, và khi ông trở ra Sue có cớ để đi ra ngoài
hành lanh. Ông nắm lấy bàn tay gầy, run rẩy của Sue đặt trong tay ông.
- Cơ may ngang bằng. Với công chăm sóc tận tuỵ của cô, cô sẽ thắng. Và
giờ tôi phải đến thăm một ca khác ở tầng dưới. Người bệnh là Behrman –
tôi nghĩ chừng đâu là một hoạ sĩ. Cũng viêm phổi. Ông ta già cả, yếu đuối,
cơn bệnh lại là cấp tính. Không có hi vọng gì, nhưng tôi sẽ đưa ông đến
bệnh viện để được thoải mái hơn.
Ngày kế, ông bác sĩ bảo Sue:
- Cô ấy qua khỏi cơn nguy rồi. Cô đã thắng. Bây giờ chỉ cần dinh dưỡng và
chăm sóc – chỉ có thế thôi.
Buổi chiều ấy, khi Johsy đang đan một cái khăn quàng len mầu lam thật
đậm và xem vẻ rất vô dụng, Sue đến bên giường cô, đặt cánh tay quanh cô
và cũng quanh mấy cái gối.
- Mình có chuyện này nói cho bồ biết, cái con chuột trắng ơi. Ông Behrman
qua đời hôm nay ở bệnh viện vì chứng viêm phổi. Ông ấy nhuốm bệnh chỉ
trong có hai ngày. Người gác dan tìm thấy ông sáng ngày đầu tiên trong căn
phòng tầng dưới, thất thủ với cân đau đớn. Đôi giầy và quần áo ông ấy bị
ướt cả, lạnh như nước đá. Họ không thể hiểu nổi ông đã đi đâu trong một
đêm kinh hoàng như thế. Và rồi họ tìm thấy cái đèn bão, vẫn cháy, và một
cái thang đã bị rời khỏi nơi cất giữ, vài cây cọ tơi tả, và nghiên mầu mới ít
mầu xanh và vàng, bồ nhìn ra ngoài cửa sổ xem, nhìn chiếc lá thường Xuân
cuối cùng trên bức tường đấy. Bồ có đặt nghi vấn tại sao nó không bao giờ
bay lất phất khi có gió thổi không? Cưng ơi, đó là kiệt tác của ông Behrman
đấy - ông đã vẽ nó đúng vào đêm chiếc lá cuối cùng rơi rụng.
Regards, Guest!
Thứ Bảy, 5 tháng 9, 2015
Ngày trở về
Một người lính
trở về nhà đoàn tụ gia đình sau nhiều năm tham chiến. Từ San Francisco anh gọi
điện về thăm hỏi gia đình
-. Cha mẹ ơi, con đang trở về nhà đây. Nhưng còn có điều muốn xin phép cùng cha mẹ. Con muốn dẫn bạn cùng về nhà mình.
- Ồ, được thôi con trai. Cha mẹ rất sẵn lòng đón tiếp bạn con.
- Nhưng có điều này cha mẹ nên biết: anh ấy bị thương khá nặng trong chiến tranh, mất cả cánh tay và đôi chân. Anh ấy không còn chỗ nào để nương tựa, vì vậy con muốn anh ấy về sống cùng chúng ta.- Cha mẹ rất tiếc khi nghe điều này, có thể chúng ta sẽ giúp anh ấy tìm được chỗ trú ngụ.
- Ồ không, con muốn anh ấy ở cùng chúng ta kia.
- Con không biết con đang đòi hỏi điều gì đâu con trai. Một người tàn tật như vậy sẽ là một gánh nặng đè lên vai chúng ta. Chúng ta còn cuộc sống riêng tư của chúng ta nữa chứ, không thể để một điều như vậy chen vào cuộc sống của chúng ta được. Tốt hơn hết là con quay về nhà và quên anh chàng ấy đi. Anh ta chắc sẽ chóng tìm được cách tự kiếm sống thôi.
Nghe đến đó, người con trai gác mấy. Vài ngày sau đó họ đột ngột nhận được cú điện thoại từ cảnh sát San Francisco báo tin người con trai đã chết sau khi ngã từ một tòa nhà cao tầng. Cảnh sát cho rằng đây là một vụ tự sát.Người cha và mẹ đau buồn này vội vã bay đến San Francisco và được dẫn đến nhà táng thành phố để nhận xác con. Họ nhận ra anh ngay, nhưng họ cũng kinh hoàng nhận ra một điều khác cùng lúc. Con trai họ chỉ còn lại một tay và một chân...
-. Cha mẹ ơi, con đang trở về nhà đây. Nhưng còn có điều muốn xin phép cùng cha mẹ. Con muốn dẫn bạn cùng về nhà mình.
- Ồ, được thôi con trai. Cha mẹ rất sẵn lòng đón tiếp bạn con.
- Nhưng có điều này cha mẹ nên biết: anh ấy bị thương khá nặng trong chiến tranh, mất cả cánh tay và đôi chân. Anh ấy không còn chỗ nào để nương tựa, vì vậy con muốn anh ấy về sống cùng chúng ta.- Cha mẹ rất tiếc khi nghe điều này, có thể chúng ta sẽ giúp anh ấy tìm được chỗ trú ngụ.
- Ồ không, con muốn anh ấy ở cùng chúng ta kia.
- Con không biết con đang đòi hỏi điều gì đâu con trai. Một người tàn tật như vậy sẽ là một gánh nặng đè lên vai chúng ta. Chúng ta còn cuộc sống riêng tư của chúng ta nữa chứ, không thể để một điều như vậy chen vào cuộc sống của chúng ta được. Tốt hơn hết là con quay về nhà và quên anh chàng ấy đi. Anh ta chắc sẽ chóng tìm được cách tự kiếm sống thôi.
Nghe đến đó, người con trai gác mấy. Vài ngày sau đó họ đột ngột nhận được cú điện thoại từ cảnh sát San Francisco báo tin người con trai đã chết sau khi ngã từ một tòa nhà cao tầng. Cảnh sát cho rằng đây là một vụ tự sát.Người cha và mẹ đau buồn này vội vã bay đến San Francisco và được dẫn đến nhà táng thành phố để nhận xác con. Họ nhận ra anh ngay, nhưng họ cũng kinh hoàng nhận ra một điều khác cùng lúc. Con trai họ chỉ còn lại một tay và một chân...
Thứ Năm, 3 tháng 9, 2015
Sức Mạnh của Nụ Cười
(Halnoch McCarty)
Smile at each other, smile at your wife, smile at your husband, smile at your
children, smile at each other -- it doesn't matter who it is -- and that will help
you to grow up in greater love for each other.
Tôi viết ra điều này từ kinh nghiệm bản thân mình. Một ngày nọ, mệt mỏi sau
một ngày làm việc, tôi bước từ sở làm về với khuôn mặt nặng trĩu. Thế rồi
một người chẳng quen biết gì trên xe điện mỉm cười với tôi, và theo phản xạ,
tôi cũng cười đáp lại. Đột nhiên, mọi mệt nhọc trong tôi dường như tan biến.
Có một câu chuyện của Saint Exupéry mà tình cờ tôi đọc được. Những
người say mê văn học không xa lạ gì với tác giả cuốn Hoàng tử bé. Ông
từng là phi công tham gia chống phát xít trong Thế Chiến II. Từ những năm
tháng này, ông đã viết ra Nụ cười. Tôi không biết đây là một tự truyện hay
một truyện hư cấu, song tôi tin rằng nó có thật. Trong truyện, Saint Exupéry
là một tù binh bị đối xử khắc nghiệt và ông nghĩ rằng nay mai mình sẽ bị xử
bắn như những người khác. Ông viết :
"Tôi trở nên quẫn trí. Bàn tay tôi co giật và rút từ túi ra một điếu thuốc.
Nhưng tôi lại không có diêm. Qua chấn song, tôi nhìn thấy người cai tù. Anh
ta không thấy tôi, nên tôi đành gọi :
-Xin lỗi, anh có lửa không ?
Anh nhún vai rồi tiến lại gần. Khi rút que diêm, tình cờ mắt anh nhìn vào mắt
tôi. Ngay lập tức, tôi mỉm cười. Tôi chẳng hiểu tại sao mình lại làm như thế.
Có lẽ vì khi muốn làm thân với ai đó, người ta dễ dàng nở một nụ cười.
Lúc này, dường như có một đốm lửa bùng cháy ngang kẽ hở giữa hai tâm
hồn chúng tôi, giữa hai trái tim con người. Tôi biết anh ta không muốn, song
do tôi cười nên anh ta phải mỉm cười đáp lại. Anh bật diêm, đến gần tôi
hơn, nhìn thẳng vào mắt tôi và miệng vẫn cười. Giờ đây, trước mặt tôi
không còn là một viên cai tù phát xít mà chỉ còn là một con người.
-Anh có con không ? - Anh ta hỏi tôi.
-Có - Tôi đáp, và lôi từ túi ra chiéc bóp có hình gia đình mình. Đoạn anh ta
cũng lôi từ túi ra tấm hình của những đứa con và bắt đầu kể những hi vọng
của anh đối với chúng.
Đôi mắt tôi nhòa lệ. Tôi biết rằng mình sắp chết và chẳng bao giờ gặp lại
người thân. Anh ta cũng khóc. Đột nhiên, không nói một lời, anh ta mở khóa
và kéo tôi ra khỏi buồng giam. Anh lặng lẽ đưa tôi ra khỏi thành phố, thả tôi
ra rồi quay trở về.
Thế đó, cuộc sống của tôi đã được cứu rỗi nhờ một nụ cười.
Từ khi đọc được câu chuyện này, tôi nghiệm ra được nhiều điều. Tôi biết
rằng bên dưới mọi vỏ bọc mà chúng ta tạo ra để bảo vệ mình, bảo vệ phẩm
giá và vị thế của mình, bên dưới những điều này còn có một cái thật quý giá
mà tôi gọi là tâm hồn.
Tôi tin rằng nếu tâm hồn bạn và tâm hồn tôi nhận ra nhau thì chúng ta chẳng
còn gì phải sợ hãi hay căm thù nhau. Nếu bạn từng có khoảnh khắc gắn bó
với người khác qua sức mạnh của nụ cười, thì tôi tin bạn cũng đồng ý với
tôi đó là một phép lạ nho nhỏ, một món quà tuyệt vời mà chúng ta có thể
dành cho nhau. Mẹ Theresa đã cảm nhận điều này trong cuộc sống và bà
đưa ra một lời khuyên chân thành : "Hãy mỉm cười với nhau, mỉm cười với
vợ bạn, với chồng bạn, với con bạn và với mọi người - dù đó là ai, vì điều này
sẽ giúp bạn lớn lên trong tình yêu của nhau".
Đọc thêm
Smile at each other, smile at your wife, smile at your husband, smile at your
children, smile at each other -- it doesn't matter who it is -- and that will help
you to grow up in greater love for each other.
Tôi viết ra điều này từ kinh nghiệm bản thân mình. Một ngày nọ, mệt mỏi sau
một ngày làm việc, tôi bước từ sở làm về với khuôn mặt nặng trĩu. Thế rồi
một người chẳng quen biết gì trên xe điện mỉm cười với tôi, và theo phản xạ,
tôi cũng cười đáp lại. Đột nhiên, mọi mệt nhọc trong tôi dường như tan biến.
Có một câu chuyện của Saint Exupéry mà tình cờ tôi đọc được. Những
người say mê văn học không xa lạ gì với tác giả cuốn Hoàng tử bé. Ông
từng là phi công tham gia chống phát xít trong Thế Chiến II. Từ những năm
tháng này, ông đã viết ra Nụ cười. Tôi không biết đây là một tự truyện hay
một truyện hư cấu, song tôi tin rằng nó có thật. Trong truyện, Saint Exupéry
là một tù binh bị đối xử khắc nghiệt và ông nghĩ rằng nay mai mình sẽ bị xử
bắn như những người khác. Ông viết :
"Tôi trở nên quẫn trí. Bàn tay tôi co giật và rút từ túi ra một điếu thuốc.
Nhưng tôi lại không có diêm. Qua chấn song, tôi nhìn thấy người cai tù. Anh
ta không thấy tôi, nên tôi đành gọi :
-Xin lỗi, anh có lửa không ?
Anh nhún vai rồi tiến lại gần. Khi rút que diêm, tình cờ mắt anh nhìn vào mắt
tôi. Ngay lập tức, tôi mỉm cười. Tôi chẳng hiểu tại sao mình lại làm như thế.
Có lẽ vì khi muốn làm thân với ai đó, người ta dễ dàng nở một nụ cười.
Lúc này, dường như có một đốm lửa bùng cháy ngang kẽ hở giữa hai tâm
hồn chúng tôi, giữa hai trái tim con người. Tôi biết anh ta không muốn, song
do tôi cười nên anh ta phải mỉm cười đáp lại. Anh bật diêm, đến gần tôi
hơn, nhìn thẳng vào mắt tôi và miệng vẫn cười. Giờ đây, trước mặt tôi
không còn là một viên cai tù phát xít mà chỉ còn là một con người.
-Anh có con không ? - Anh ta hỏi tôi.
-Có - Tôi đáp, và lôi từ túi ra chiéc bóp có hình gia đình mình. Đoạn anh ta
cũng lôi từ túi ra tấm hình của những đứa con và bắt đầu kể những hi vọng
của anh đối với chúng.
Đôi mắt tôi nhòa lệ. Tôi biết rằng mình sắp chết và chẳng bao giờ gặp lại
người thân. Anh ta cũng khóc. Đột nhiên, không nói một lời, anh ta mở khóa
và kéo tôi ra khỏi buồng giam. Anh lặng lẽ đưa tôi ra khỏi thành phố, thả tôi
ra rồi quay trở về.
Thế đó, cuộc sống của tôi đã được cứu rỗi nhờ một nụ cười.
Từ khi đọc được câu chuyện này, tôi nghiệm ra được nhiều điều. Tôi biết
rằng bên dưới mọi vỏ bọc mà chúng ta tạo ra để bảo vệ mình, bảo vệ phẩm
giá và vị thế của mình, bên dưới những điều này còn có một cái thật quý giá
mà tôi gọi là tâm hồn.
Tôi tin rằng nếu tâm hồn bạn và tâm hồn tôi nhận ra nhau thì chúng ta chẳng
còn gì phải sợ hãi hay căm thù nhau. Nếu bạn từng có khoảnh khắc gắn bó
với người khác qua sức mạnh của nụ cười, thì tôi tin bạn cũng đồng ý với
tôi đó là một phép lạ nho nhỏ, một món quà tuyệt vời mà chúng ta có thể
dành cho nhau. Mẹ Theresa đã cảm nhận điều này trong cuộc sống và bà
đưa ra một lời khuyên chân thành : "Hãy mỉm cười với nhau, mỉm cười với
vợ bạn, với chồng bạn, với con bạn và với mọi người - dù đó là ai, vì điều này
sẽ giúp bạn lớn lên trong tình yêu của nhau".
Thứ Tư, 2 tháng 9, 2015
TRÁI TIM - BỘ ÓC VÀ CÁI LƯỠI
Một ngày kia, trái tim, bộ óc và cái lưỡi đồng ý với nhau sẽ
không bao giờ
nói những lời đơn sơ bé nhỏ nữa.
Trái tim: "Những lời đơn sơ nhỏ bé chỉ làm bận rộn ta thôi. Chúng làm cho
ta trở nên yếu đuối. Sống trong thời buổi này, trái tim phải trở nên cứng rắn,
cương quyết chứ không thể mềm nhũn dễ bị xúc động được."
Bộ óc đồng tình: "Vâng, đúng thế, thời buổi này chỉ có những tư tưởng cao
siêu, những công thức tuyệt vời, những chương trình vĩ đại mới đáng cho bộ
óc suy nghĩ tới. Những lời đơn sơ nhỏ bé chỉ làm mất thời giờ, mà thời giờ
là vàng bạc."
Cái lưỡi nghe trái tim và bộ óc nói thế không khỏi hãnh diện và tự cảm thấy
mình trở nên rất quan trọng, mặc dù cái lưỡi chỉ là bộ phận bé nhỏ của thân
thể. Vì thế lưỡi cũng nhất trí: "Hai anh quả thật đã đạt được tột đỉnh của sự
khôn ngoan. Nếu hai anh nghĩ thế thì kể từ nay tôi sẽ chỉ nói những từ cao
siêu, những câu văn hoa bóng bẩy, những bài diễn văn sâu sắc hùng hồn."
Kể từ dạo ấy, trái tim chỉ gửi đến lưỡi những lời nói cứng cỏi, bộ óc chỉ sản
xuất và gửi xuống lưỡi những tư tưởng cao siêu và lưỡi không còn nói
những lời đơn sơ nhỏ bé nữa.
Thời gian trôi đi. Mặt đất trở nên tẻ nhạt như cảnh vật vào mùa đông : không
một chiếc lá xanh, không một cánh hoa đồng nội và lòng người cũng trở nên
chai đá như những tháng hè nóng bức.
Nhưng những ông già bà cả vẫn còn nhớ những lời đơn sơ nhỏ bé. Đôi lúc
miệng họ vô tình bật nói ra chúng. Lúc đầu họ sợ bị bọn trẻ chê cười. Nhưng
kìa, thay vì chê cười, những lời nói đơn sơ nhỏ bé lại được truyền từ miệng
này sang miệng khác, từ bộ óc này sang bộ óc khác, từ trái tim này qua trái
tim nọ. Cuối cùng chúng xuất hiện như những đóa hoa phá tan lớp băng
tuyết giá lạnh để vươn cao làm đẹp cho đời.
nói những lời đơn sơ bé nhỏ nữa.
Trái tim: "Những lời đơn sơ nhỏ bé chỉ làm bận rộn ta thôi. Chúng làm cho
ta trở nên yếu đuối. Sống trong thời buổi này, trái tim phải trở nên cứng rắn,
cương quyết chứ không thể mềm nhũn dễ bị xúc động được."
Bộ óc đồng tình: "Vâng, đúng thế, thời buổi này chỉ có những tư tưởng cao
siêu, những công thức tuyệt vời, những chương trình vĩ đại mới đáng cho bộ
óc suy nghĩ tới. Những lời đơn sơ nhỏ bé chỉ làm mất thời giờ, mà thời giờ
là vàng bạc."
Cái lưỡi nghe trái tim và bộ óc nói thế không khỏi hãnh diện và tự cảm thấy
mình trở nên rất quan trọng, mặc dù cái lưỡi chỉ là bộ phận bé nhỏ của thân
thể. Vì thế lưỡi cũng nhất trí: "Hai anh quả thật đã đạt được tột đỉnh của sự
khôn ngoan. Nếu hai anh nghĩ thế thì kể từ nay tôi sẽ chỉ nói những từ cao
siêu, những câu văn hoa bóng bẩy, những bài diễn văn sâu sắc hùng hồn."
Kể từ dạo ấy, trái tim chỉ gửi đến lưỡi những lời nói cứng cỏi, bộ óc chỉ sản
xuất và gửi xuống lưỡi những tư tưởng cao siêu và lưỡi không còn nói
những lời đơn sơ nhỏ bé nữa.
Thời gian trôi đi. Mặt đất trở nên tẻ nhạt như cảnh vật vào mùa đông : không
một chiếc lá xanh, không một cánh hoa đồng nội và lòng người cũng trở nên
chai đá như những tháng hè nóng bức.
Nhưng những ông già bà cả vẫn còn nhớ những lời đơn sơ nhỏ bé. Đôi lúc
miệng họ vô tình bật nói ra chúng. Lúc đầu họ sợ bị bọn trẻ chê cười. Nhưng
kìa, thay vì chê cười, những lời nói đơn sơ nhỏ bé lại được truyền từ miệng
này sang miệng khác, từ bộ óc này sang bộ óc khác, từ trái tim này qua trái
tim nọ. Cuối cùng chúng xuất hiện như những đóa hoa phá tan lớp băng
tuyết giá lạnh để vươn cao làm đẹp cho đời.
Thứ Ba, 1 tháng 9, 2015
Những thứ không thể mua được bằng tiền
Có một người rất keo kiệt, lúc nào cũng chắt bóp chẳng dám ăn tiêu gì. Tích cóp cả đời, anh ta để dành được cả một gia tài lớn.
Không ngờ một ngày, Thần Chết đột nhiên xuất hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền kia. Anh ta bèn nài nỉ:
- Tôi chia một phần ba tài sản của tôi cho Ngài, chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi.
- Không được. – Thần Chết lắc đầu.
- Vậy tôi đưa Ngài một nửa. Ngài cho tôi nửa năm nữa, được không? – Anh ta tiếp tục van xin.
- Không được. – Thần Chết vẫn không đồng ý
Anh ta vội nói:
- Vậy… tôi xin giao hết của cải cho Ngài. Ngài cho tôi một ngày thôi, được không?
- Không được. – Thần Chết vừa nói, vừa giơ cao chiếc lưỡi hái trên tay.
Người đàn ông tuyệt vọng cầu xin Thần Chết lần cuối cùng:
- Thế thì Ngài cho tôi một phút để viết chúc thư vậy.
Lần này, Thần Chết gật đầu. Anh run rẩy viết một dòng:
- Xin hãy ghi nhớ: “Bao nhiều tiền bạc cũng không mua nổi một ngày”.
Bạn thấy đấy, giá trị của thời gian không nằm ở đồng tiền, giá trị của thời gian nằm ở những năm tháng chúng ta đang sống hoài hoang phí.
Bạn có biết, tuổi thọ trung bình của người Việt là 70 năm. Nhưng trong 70 năm ấy, có người sống trọn nhưng không để lại thứ gì cho đời. Có người sống 30 năm nhưng lại để lại tất thảy những điều tốt đẹp.
Mục đích của câu chuyện này là nhấn mạnh cách sử dụng cuộc sống. Dù cả đời bạn làm việc cật lực để kiếm tiền, nhưng bạn không biết cách sử dụng chúng cho những điều tốt đẹp, thời gian cũng là vô ích. Bạn sẽ không để lại điều gì đẹp đẽ cho đời. Khối tài sản hiện có cũng vô giá trị về mặt tinh thần, bạn ra đi mà không có kỉ niệm vui, không có những năm tháng hạnh phúc bên người thân, bạn bè, không có những ngày “lăn lộn” cùng chiến hữu… Đó mới chính là giá trị thực mà không thứ gì mua được.
Thứ giá trị nhất mà cuộc sống cho ta là thời gian. Khi còn chưa làm được gì có ích cho đời, thì cũng đừng làm những điều vô vị.
Bởi đồng tiền không mua được thời gian, nên phải sử dụng chúng một cách hợp lý. Đừng vì một người, một vài lời nói, mà làm những điều vô tri, đánh mất thứ quý giá của bản thân.
(sưu tầm)
Đọc thêm
Không ngờ một ngày, Thần Chết đột nhiên xuất hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền kia. Anh ta bèn nài nỉ:
- Tôi chia một phần ba tài sản của tôi cho Ngài, chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi.
- Không được. – Thần Chết lắc đầu.
- Vậy tôi đưa Ngài một nửa. Ngài cho tôi nửa năm nữa, được không? – Anh ta tiếp tục van xin.
- Không được. – Thần Chết vẫn không đồng ý
Anh ta vội nói:
- Vậy… tôi xin giao hết của cải cho Ngài. Ngài cho tôi một ngày thôi, được không?
- Không được. – Thần Chết vừa nói, vừa giơ cao chiếc lưỡi hái trên tay.
Người đàn ông tuyệt vọng cầu xin Thần Chết lần cuối cùng:
- Thế thì Ngài cho tôi một phút để viết chúc thư vậy.
Lần này, Thần Chết gật đầu. Anh run rẩy viết một dòng:
- Xin hãy ghi nhớ: “Bao nhiều tiền bạc cũng không mua nổi một ngày”.
Bạn thấy đấy, giá trị của thời gian không nằm ở đồng tiền, giá trị của thời gian nằm ở những năm tháng chúng ta đang sống hoài hoang phí.
Bạn có biết, tuổi thọ trung bình của người Việt là 70 năm. Nhưng trong 70 năm ấy, có người sống trọn nhưng không để lại thứ gì cho đời. Có người sống 30 năm nhưng lại để lại tất thảy những điều tốt đẹp.
Mục đích của câu chuyện này là nhấn mạnh cách sử dụng cuộc sống. Dù cả đời bạn làm việc cật lực để kiếm tiền, nhưng bạn không biết cách sử dụng chúng cho những điều tốt đẹp, thời gian cũng là vô ích. Bạn sẽ không để lại điều gì đẹp đẽ cho đời. Khối tài sản hiện có cũng vô giá trị về mặt tinh thần, bạn ra đi mà không có kỉ niệm vui, không có những năm tháng hạnh phúc bên người thân, bạn bè, không có những ngày “lăn lộn” cùng chiến hữu… Đó mới chính là giá trị thực mà không thứ gì mua được.
Thứ giá trị nhất mà cuộc sống cho ta là thời gian. Khi còn chưa làm được gì có ích cho đời, thì cũng đừng làm những điều vô vị.
Bởi đồng tiền không mua được thời gian, nên phải sử dụng chúng một cách hợp lý. Đừng vì một người, một vài lời nói, mà làm những điều vô tri, đánh mất thứ quý giá của bản thân.
(sưu tầm)
Hãy theo đuổi tới cùng những khát vọng của đời mình
"Tôi có một người bạn
tên Monty Robert, hiện là chủ nhân một trại nuôi
ngựa ở San Ysidro. Anh đã cho phép tôi dùng nhà của anh để tổ chức
những buổi gây quỹ nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư có tính rủi ro cao do
thanh niên thực hiện.
Một hôm, anh đến ngồi cạnh tôi và nói:
- Tôi muốn kể cho bạn biết tại sao tôi để bạn sử dụng nhà của tôi để làm nơi
tổ chức gây quỹ. Chuyện xảy ra cách đây nhiều năm. Có một cậu bé sống
cùng với cha của mình, một người làm nghề huấn luyện ngựa. Do công việc,
người cha phải sống như một kẻ du mục. Ông đi từ trang trại này đến trang
trại khác để huấn luyện các chú ngựa chưa được thuần hoá. Kết quả là việc
học hành của cậu bé không được ổn định lắm. Một hôm, thầy giáo bảo cậu
bé về viết một bài luận văn với đề tài "Lớn lên em muốn làm nghề gì?".
Đêm đó, cậu bé đã viết bẩy trang giấy mô tả khát vọng ngày nào đó sẽ làm
chủ một trang trại nuôi ngựa. Em diễn đạt ước mơ của mình thật chi tiết.
Thậm chí em còn vẽ cả sơ đồ trại nuôi ngựa tương lai với diện tích khoảng
200 mẫu, trong đó em chỉ rõ chỗ nào xây nhà, chỗ nào đặt làm đường chạy
cho ngựa.
Viết xong, cậu bé đem bài nộp thầy giáo. Vài ngày sau, cậu bé nhận lại bài
làm của mình với một điểm 1 to tướng và một dòng bút phê đỏ chói của
thầy "Đến gặp tôi sau giờ học".
Thế là cuối giờ cậu bé đến gặp thầy và hỏi:
- Thưa thầy, tại sao em lại bị điểm 1?
- Em đã hoạch định một việ mà em không thể làm được. Ước mơ của em
không có cơ sở thực tế. Em không có tiền thân lại xuất thân từ một gia đình
không có chỗ ở ổn định. Nói chung, em không được một nguồn lực khả dĩ
nào để thực hiện những dự tính của mình. Em có biết để làm chủ một trại
nuôi ngựa thì cần phải có rất nhiều tiền không? Bây giờ tôi cho em về làm lại
bài văn. Nếu em sửa chữa cho nó thực tế hơn thì tôi sẽ cứu xét đến điểm
số của em. Rõ chưa?
Hôm đó, cậu bé về nhà và nghĩ ngợi mãi. Cuối cùng cậu gặp cha để hỏi ý
kiến.
-Con yêu, chính con phải quyết định vì ba nghĩ đây là ước mơ của con.
Nghe cha đáp, cậu bẻ liền nhoẻn miệng cười và sau đó đến gặp thầy giáo
của mình
- Thưa thầy, thầy có thể giữ điểm 1 của thầy, còn em xin được giữ ước mơ
của mình.
Kể đến đây Monty dừng lại và hỏi tôi:
- Bạn có biết bạn đang ngồi trong một trại ngựa rộng 200 mẫu của cậu bé
trong câu chuyện mà tôi vừa kể không? Cách đây hai năm, vị thầy giáo đó
đã tình cờ dẫn 30 học trò của mình đến đây để cắm trại. Thế là thầy trò tôi
nhận ra nhau. Cầm tay tôi, thầy nói :"Monty này, khi anh còn học với tôi, tôi
đã đánh cắp ước mơ của anh, và suốt bao nhiêu năm qua tôi cũng đã làm
thế với bao đứa trẻ khác, tôi rất ân hận về điều đó" . Nghe thầy nói thế, tôi
vội đáp "Không, thưa thầy, thầy không có lỗi gì cả, chẳng qua thầy chỉ muốn
những gì tốt đẹp sẽ đến với học trò của mình mà thôi. Còn em chỉ muốn theo
đuổi tới cùng những khát vọng của đời mình"
ngựa ở San Ysidro. Anh đã cho phép tôi dùng nhà của anh để tổ chức
những buổi gây quỹ nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư có tính rủi ro cao do
thanh niên thực hiện.
Một hôm, anh đến ngồi cạnh tôi và nói:
- Tôi muốn kể cho bạn biết tại sao tôi để bạn sử dụng nhà của tôi để làm nơi
tổ chức gây quỹ. Chuyện xảy ra cách đây nhiều năm. Có một cậu bé sống
cùng với cha của mình, một người làm nghề huấn luyện ngựa. Do công việc,
người cha phải sống như một kẻ du mục. Ông đi từ trang trại này đến trang
trại khác để huấn luyện các chú ngựa chưa được thuần hoá. Kết quả là việc
học hành của cậu bé không được ổn định lắm. Một hôm, thầy giáo bảo cậu
bé về viết một bài luận văn với đề tài "Lớn lên em muốn làm nghề gì?".
Đêm đó, cậu bé đã viết bẩy trang giấy mô tả khát vọng ngày nào đó sẽ làm
chủ một trang trại nuôi ngựa. Em diễn đạt ước mơ của mình thật chi tiết.
Thậm chí em còn vẽ cả sơ đồ trại nuôi ngựa tương lai với diện tích khoảng
200 mẫu, trong đó em chỉ rõ chỗ nào xây nhà, chỗ nào đặt làm đường chạy
cho ngựa.
Viết xong, cậu bé đem bài nộp thầy giáo. Vài ngày sau, cậu bé nhận lại bài
làm của mình với một điểm 1 to tướng và một dòng bút phê đỏ chói của
thầy "Đến gặp tôi sau giờ học".
Thế là cuối giờ cậu bé đến gặp thầy và hỏi:
- Thưa thầy, tại sao em lại bị điểm 1?
- Em đã hoạch định một việ mà em không thể làm được. Ước mơ của em
không có cơ sở thực tế. Em không có tiền thân lại xuất thân từ một gia đình
không có chỗ ở ổn định. Nói chung, em không được một nguồn lực khả dĩ
nào để thực hiện những dự tính của mình. Em có biết để làm chủ một trại
nuôi ngựa thì cần phải có rất nhiều tiền không? Bây giờ tôi cho em về làm lại
bài văn. Nếu em sửa chữa cho nó thực tế hơn thì tôi sẽ cứu xét đến điểm
số của em. Rõ chưa?
Hôm đó, cậu bé về nhà và nghĩ ngợi mãi. Cuối cùng cậu gặp cha để hỏi ý
kiến.
-Con yêu, chính con phải quyết định vì ba nghĩ đây là ước mơ của con.
Nghe cha đáp, cậu bẻ liền nhoẻn miệng cười và sau đó đến gặp thầy giáo
của mình
- Thưa thầy, thầy có thể giữ điểm 1 của thầy, còn em xin được giữ ước mơ
của mình.
Kể đến đây Monty dừng lại và hỏi tôi:
- Bạn có biết bạn đang ngồi trong một trại ngựa rộng 200 mẫu của cậu bé
trong câu chuyện mà tôi vừa kể không? Cách đây hai năm, vị thầy giáo đó
đã tình cờ dẫn 30 học trò của mình đến đây để cắm trại. Thế là thầy trò tôi
nhận ra nhau. Cầm tay tôi, thầy nói :"Monty này, khi anh còn học với tôi, tôi
đã đánh cắp ước mơ của anh, và suốt bao nhiêu năm qua tôi cũng đã làm
thế với bao đứa trẻ khác, tôi rất ân hận về điều đó" . Nghe thầy nói thế, tôi
vội đáp "Không, thưa thầy, thầy không có lỗi gì cả, chẳng qua thầy chỉ muốn
những gì tốt đẹp sẽ đến với học trò của mình mà thôi. Còn em chỉ muốn theo
đuổi tới cùng những khát vọng của đời mình"
Đăng ký:
Bài đăng
(
Atom
)